Thời tiết Reykjavík giữa tháng Sáu rất dễ chịu, vừa bước vào mùa đẹp nhất. Hương hoa ngào ngạt trong không khí, xen lẫn với cái lạnh đặc trưng của vùng vĩ độ cao. Bên cạnh là biển rộng mênh mông, thi thoảng có mấy con chim hải âu bay ngang qua bầu trời, cánh chim vẽ thành một vòng cung uyển chuyển trên nền trời xanh thẳm.
August đứng ở cổng nhà ga một lúc, dù đã thay trang phục bình thường nhưng quanh năm trong quân ngũ khiến anh trông rất khác những du khách xung quanh. Trước đó anh đã hỏi được số di động của Dan từ Harvey, đang do dự có nên gọi điện trước hay không thì có tiếng huýt sáo trêu chọc vang lên phía sau.
Theo bản năng, anh quay đầu lại thì thấy một cô gái cao gầy đang đứng sau lưng mình. Mái tóc dài màu nâu được cột đuôi ngựa gọn gàng sau gáy, để lộ vầng trán sáng sủa. Cô mặc một chiếc áo ba lỗ, kính râm cài trước ngực, chiếc áo sơ mi màu vàng chanh buộc ở thắt lưng quần jeans. Cô đeo balo lệch vai, đang đẩy một chiếc vali cao cỡ ngang người.
Thấy anh quay đầu lại, cô nở một nụ cười hào phóng: “Tới Reykjavík à? Đi cùng không?”
August nhìn chiếc vali của cô rồi lại nhìn chiếc balo nhỏ gọn của mình, anh lịch sự lắc đầu: “Không.”
Cô gái không hề bị anh làm chùn chân, thậm chí còn tiến lên một bước, đầy hứng thú nói: “Anh đang chờ ai à? Có người tới đón hả?”
August thấy không thoải mái, anh lùi về sau nửa bước: “Không.”
Cô gái “chẹp” một tiếng: “Vậy đi cùng nhé. Tôi là Catherine, còn anh?” Cô chìa tay ra.
August không quen với kiểu thân thiện quá đà của cô gái này, anh thận trọng bắt tay cô: “August.”
Hiển nhiên cô gái đã bỏ qua lời từ chối lịch sự trước đó của anh, cô giơ tay chặn một chiếc taxi bên đường, quay đầu mời August: “Lên xe chứ?”
Thấy cô gái đã mở cốp cất hành lý, August thầm thở dài, bước tới giúp cô cất vali vào cốp sau, rồi anh cũng bỏ balo của mình vào.
Kịch bản làm quen với người lạ này cô gái vốn đã thuộc làu, cả quãng đường cứ một hỏi một đáp. Cô hỏi về nghề nghiệp của August, tại sao lại đến Reykjavík, đồng thời giới thiệu vài nơi ngắm mạch nước phun mà không nhiều du khách biết tới.
Dọc đường, August cảm thấy hai tai như ù đi, nhưng sự giáo dục từ nhỏ không cho phép anh mất lịch sự với một cô gái xa lạ. Hơn nữa cô gái này rất giỏi quan sát sắc mặt, hỏi thăm cũng rất khéo, chỉ cần thấy August không muốn trả lời sâu hơn thì cô sẽ lập tức chuyển chủ đề. Cuối cùng khi cô xuống xe ở nhà thờ Hallgrímskirkja, August thở phào nhẹ nhõm.
“Tôi đi trước nhé. Đây là số điện thoại của tôi. Nếu như anh cần tìm bạn tám chuyện ở Reykjavík hoặc… đi dạo loanh quanh thì cứ gọi cho tôi.” Catherine lấy một cuốn sổ và một cây bút từ trong chiếc balo đeo lệch vai, rồi xé một trang, viết một dãy số đưa cho anh.
August nhận lấy, không đáp lời. Anh chỉ gật đầu coi như đã biết rồi chào tạm biệt cô.
Khách sạn của anh ở gần Old Harbour, cách quán bar của Harvey không xa. Sau khi nhận phòng và cất đồ, anh không đến Old Harbour ngay mà đến Corlena trước.
Đúng lúc Harvey đang ở quán, thấy anh vào thì khá ngạc nhiên: “Tôi tưởng anh đã đi rồi.”
August gật đầu: “Nhiệm vụ kết thúc là chúng tôi phải trở về căn cứ, nhưng hiện tại tôi đang nghỉ phép.”
Harvey là người thông minh, ngần ấy năm có loại người nào mà chưa từng gặp. Trong lòng có vô số ý tưởng nhưng y vẫn giữ nét mặt bình thản: “Anh đến tìm Dan à?”
“Ừ, mấy ngày nay cậu ấy vẫn làm việc ở Old Harbour chứ?”
Harvey nhún vai: “Thật không may, ba ngày trước tôi nhận được tin cậu ấy đã theo một con tàu nghiên cứu khoa học chở du khách đến Bắc Cực.”
August: “… Bắc Cực?”
“Cậu ấy không nói cụ thể, chắc là đi quanh mấy quần đảo gần vòng cực*, nhưng ít nhất cũng phải một tuần nữa mới trở về.”
(*) Vòng cực là các đường tưởng tượng trên bề mặt Trái Đất, mà tại các điểm từ các đường này đến hai địa cực đôi khi xảy ra hiện tượng Ngày hay đêm vùng cực. Trên Trái Đất có hai vòng cực: Vòng Bắc Cực và Vòng Nam Cực.
August không nói gì, chỉ cảm ơn Harvey rồi quay người rời đi.
Harvey nhìn theo bóng lưng anh, khoanh tay sờ cằm. Tuy Dan không kể rõ chuyện lúc trước, nhưng với cơn say đêm đó và việc cậu cố tình tránh mặt August thì 90% đây chính là người mà cậu từng tỏ tình. Có vẻ lần này August cố ý đến tìm Dan, nếu nói hai người này không có gì, chính Harvey cũng chẳng tin. Sau khi cân nhắc vài giây, y quyết định giúp họ một tay.
“Này, August.” Y gọi lại ngay trước khi người đàn ông rời khỏi quán bar.
“?” August nghi hoặc quay đầu lại.
“Nếu anh đến tìm Dan thì có thể dạo quanh nơi này mấy ngày. Dan nói cậu ấy rất thích thành phố này. Đương nhiên nếu như không phải, vậy thì cứ coi như tôi chưa nói gì.”
August sửng sốt một giây, nhoẻn miệng cười: “Tôi hiểu rồi, cám ơn.”
Chuyến này “Cá voi trắng” chở chưa tới 20 du khách, có thể coi là một hành trình nhẹ nhàng. Mấy năm nay du lịch Vòng Bắc Cực khá phát triển, số tuyến đường tăng lên đồng thời quy định rõ khu vực không người, cấm du thuyền đưa du khách ra vào. Điểm đến của họ trong chuyến đi này là mấy quần đảo gần vòng cực, du khách lên đảo không quá ba ngày, thời gian còn lại đều ở trên tàu.
Trong đêm đầu tiên khởi hành, Dan không kịp thích ứng. Đúng lúc ban ngày vùng cực, Dan trằn trọc mãi không ngủ được. Đã quá nửa đêm, cậu bật dậy, lặng lẽ ra ngoài boong tàu tầng một.
Biển lặng. Mặt trời lơ lửng trên cao, không một gợn mây. Trên boong tàu không một bóng người, xung quanh vắng lặng. Ánh nắng chiếu xuống khiến mặt biển trông như tấm lụa mềm.
Không hiểu sao cậu chợt nhớ đến mùa hè ở Greenland. Những ngày tập huấn, nếu ngẩng đầu ngắm nhìn một lúc lâu sẽ cảm thấy bầu trời xanh như nối liền với sông băng dưới mặt đất. Màu xanh lam như giao nhau, ngay cả ánh nắng cũng mang theo cái lạnh. Con người sao mà nhỏ bé. Giờ phút này lênh đênh trên biển, cậu cảm thấy như gần bầu trời hơn một chút.
“Không quen hả?” Giọng Charzo vang lên sau lưng cậu.
Dan quay đầu lại, không biết Charzo bước lên boong từ khi nào. Hắn cầm theo một chai bia, thản nhiên dựa vào lan can bên cạnh.
Dan nhìn về phía buồng lái, Charzo bật cười: “Không cần nhìn, thuyền phó hai* tới gác rồi. Hiện tại là 2 giờ sáng, tôi ra ngoài hít thở.” Nói xong, hắn ngửa đầu uống một hớp bia, xích lại gần Dan: “Cậu không say sóng chứ?”
(*) Second mate (2nd Mate) hoặc second officer (2/O): Là một trong hai sỹ quan vận hành trên tàu, làm theo lệnh của thuyền trưởng khi đi ca biển và theo lệnh của thuyền phó một khi đi ca bờ.
Dan lắc đầu: “Không say sóng, chỉ là chưa quen.”
“Thói quen, món đồ chơi này chẳng biết nên nói là tốt hay xấu.”
Dan nghiêng đầu: “Anh làm nghề này lâu chưa?”
Charzo đếm: “Chắc cũng 10 năm. Lênh đênh trên biển cả ngày, thế mà đã 10 năm.”
“Vẫn luôn ở ‘Cá voi trắng’?”
“Đúng. Lúc đầu làm thủy thủ thì đi theo Fitch, sau đó ổng mua con tàu này, sửa chữa rồi tân trang lại, tất nhiên tôi vẫn đi theo ổng.”
Một ý nghĩ lóe lên trong mắt Dan, cậu chần chừ nói: “Cứ trôi dạt trên biển, anh có cảm thấy nhớ đất liền… hay cảm giác đặt chân trên đất liền?”
Charzo bật cười: “Cậu không hiểu thủy thủ. Làm nghề này, chúng tôi xác định phải lênh đênh trên biển, có khi dành cả đời trên biển. Đất liền ư? Quá xa vời.”
Dan không nói gì, nhìn mặt biển xa xăm.
“Còn cậu thì sao, trước kia làm gì?” Charzo ngửa đầu nhấp một ngụm bia, nghiêng đầu hỏi Dan.
“Tôi hả? Làm lính.”
Charzo lộ vẻ thán phục: “Thảo nào tôi cứ cảm thấy cậu khác người.”
Dan cũng cười: “Khác thế nào?”
Charzo giơ chai bia trong tay về phía cậu: “Nói đơn giản thì là phong cách làm việc. Trên thuyền này có nhiều thủy thủ giàu kinh nghiệm hơn cậu, nhưng kể cả người mới thì cũng không có ai làm việc… ừm, cẩn thận như cậu.”
Dan nhận ra sự trêu chọc trong giọng hắn, cậu nhướng mày: “Sao vậy? Là sếp của tôi, chẳng lẽ anh không mong tôi làm việc cẩn thận?”
Charzo bật cười: “Đúng là có lúc cần phải cẩn thận. Lý do tôi ghét bọn tay mơ là vì họ đã thiếu hiểu biết còn tự cho là thông minh. Cậu thì khá lắm.” Hắn vỗ vai Dan, lại nhấp một ngụm bia, “Không ngủ được thì cũng đừng lang thang trên tàu, mai còn có việc, nghỉ ngơi sớm đi.” Hắn ngâm nga một giai điệu không biết tên rồi đi mất.
Ngày thứ ba khi đến vùng biển Greenland, họ nhìn thấy hai con cá voi Bắc Cực trên biển. Lúc đó mới ăn trưa xong, Dan viết biên bản bàn giao cho thuyền viên thay ca, vừa bước xuống boong tầng một thì nghe thấy tiếng reo hò khe khẽ, một nhóm người vây quanh mạn tàu bên phải.
Charzo ở bên ngoài đám đông, cậu bèn hỏi hắn: “Có chuyện gì vậy?”
Gương mặt Charzo chứa ý cười, trông hắn thư thái và dễ chịu: “Cá voi Greenland, hôm nay may phết.”
Dan nghe vậy thì chen vào đám đông, vẻ mặt tò mò: “Tôi chưa nhìn thấy bao giờ.”
Charzo ôm vai cậu: “Tuy năm nào chúng tôi cũng chạy tuyến đường này mấy lần nhưng cũng hiếm khi nhìn thấy, nhất là mấy năm gần đây. Đi nào, tôi dẫn cậu lên chỗ cao ngắm, đừng chen lấn ở đây với họ.”
Hắn dẫn cậu lên cầu thang đến boong tầng hai, cậu hoang mang: “Chỗ cao nào thế?”
Charzo chớp chớp mắt với cậu: “Vị trí đắc địa, bình thường không dễ vào.”
Tới khi thấy hắn lấy ra chìa khóa phòng nghỉ của thuyền trưởng như thể làm ảo thuật, rồi dễ dàng mở cửa phòng thuyền trưởng, Dan tỏ vẻ bất lực: “Như này không sao chứ?”
Charzo ra vẻ bí ẩn giơ một ngón tay với cậu: “Suỵt, cậu không nói thì chẳng ai biết. Fitch có một buổi tọa đàm trong phòng sinh hoạt lúc 3 giờ, ổng sẽ không lên đây. Đi theo tôi nào.” Hắn quen thuộc đi vào căn phòng bên tay phải, mở cửa sổ sát đất rồi quay đầu vẫy tay với Dan.
Dan do dự giây lát rồi bước tới.
Đó là một ban công nhỏ rộng vài mét vuông, đứng ở vị trí này có thể thấy rõ boong phía dưới và vùng biển phía mạn tàu bên phải.
Trên làn nước xanh thẳm, một con cá voi Greenland màu đen dài khoảng chục mét đang lười nhác trôi trên mặt biển, như thể đang đi theo tàu “Cá voi trắng”. Nhìn từ trên cao càng thấy rõ đầu nó là một đường cong thật lớn.
Bơi được một lúc, động tác của nó chậm dần, như thể nhận ra điều gì. Đột nhiên, nó tung người trên không, nhảy lên từ mặt biển, vẽ thành một vòng cung tao nhã rồi lại nhào xuống nước. Bọt nước văng tung tóe khiến những người trên boong dưới la hét tránh xa.
Như thể hài lòng với hiệu quả của trò đùa dai này, nó lại thò lên từ mặt biển, hơi nhô đầu lên, trông có vẻ hả hê.
“Suỵt… cậu nghe này…” Charzo giơ ngón tay bên môi, ra hiệu cho Dan nhìn ra xa.
Dan cẩn thận lắng nghe một hồi, vẻ mặt hoang mang: “Gì thế?”
Charzo thở dài, đưa tay che mắt Dan: “Nghe đi…”
Dan không kịp thích ứng với bóng tối đột ngột. Lòng bàn tay Charzo khô ráp, đầy vết chai, phảng phất mùi biển. Hơi thở ấm áp của hắn dường như ngay sát bên tai cậu.
Không quen với khoảng cách gần như vậy, Dan dịch người ra nhưng bị Charzo ngăn lại: “Đừng nhúc nhích. Đừng nhìn. Nghe kỹ vào.”
Dan từ bỏ việc giãy giụa, cậu chú tâm theo lời Charzo. Ban đầu là đủ loại âm thanh bên tai: Tiếng cười nói của du khách trên boong tàu, tiếng nước biển rì rào va vào thân tàu, tiếng chim biển* rít lên khi bay ngang qua. Dần dần, dường như cậu nghe thấy tiếng gì khác.
(*) Chim biển là những loài chim thích nghi để sống ở môi trường hải dương.
Ban đầu âm thanh này khá nhỏ bé, nhưng khi đã bắt được nó, những tạp âm khác trong tai sẽ tự động bị loại bỏ. Chỉ còn lại âm thanh cổ xưa nguyên thủy, trầm thấp, mộc mạc, xa xăm, rồi lại mang theo nỗi cô đơn khôn tả.
“Đây là…” Dan thì thào.
“Bài hát của cá voi*.” Charzo nói rất khẽ.
(*) Whale song: Là âm thanh mà cá voi tạo ra để giao tiếp với nhau.