Chẳng khác nào tạo ra đạo thứ bảy trong một khoảng thời gian rất ngắn, ngặt nỗi là đạo này rất nhỏ, chứa có một mình y mà thôi.
Trên thiên đình chỉ có năm vị thần linh tinh thông loại pháp thuật này, y vừa hay chính là một trong số đó. Y đã cẩn thận đo lường tính toán phương vị của nơi mình đang ở hiện tại, nhanh chóng vẽ phù văn bằng ngôn ngữ Cựu Thần phức tạp cùng với một vài phù hiệu mà đến ngay cả thần tiên cũng khó có thể lý giải được xuống đất. Chỉ cần hơi có điều bất ngờ hoặc sai sót trong tính toán, trận pháp này đều sẽ không thể thành công, không những vậy còn có thể tạo thành sự cố ví dụ như không gian bị xé rách. Có vài lời đồn đại đã nói, từ xa xăm trước đây, một vị Cựu Thần mạnh mẽ trong quá trình dùng khuy cơ trận đã tính toán sai lầm dẫn đến trận pháp xuất hiện chênh lệch rất lớn, sau một loạt phản ứng dây chuyền, trong địa ngục đã vỡ ra một đám lớn không gian – chính là địa ngục Cô Độc, ban đầu, bởi thiếu hụt địa khí cho nên không một thứ gì trong đó có thể sống lâu được, cũng không có thứ gì có thể tồn tại, thành ra mới gọi tên là địa ngục Cô Độc. Về sau Phạm Thiên đại chiến với Cựu Thần, nhằm có thể kiến tạo nên cung điện của Cựu Thần, những ma binh ma tướng đó mới suy nghĩ ra một phương pháp nào đó, dẫn một phần nhỏ địa khí trong địa ngục vào bên trong địa ngục Cô Độc, từ đó mới xuất hiện biển hoa bỉ ngạn vô biên vô bờ ấy.
Sau nửa canh giờ, y đã hoàn thành phác hoạ cơ bản của trận hình, rồi y lấy ra một con dao găm, cắt xuống lòng bàn tay, để máu chảy xuống vài vị trí cố định trong trận pháp. Đồng thời, miệng y ngâm xướng ngôn ngữ Cựu Thần cổ xưa, âm thanh có nhịp điệu tựa như một khúc trường ca mờ ảo xa xăm vang vọng trong cả căn phòng. Cùng với tiếng ngâm xướng, trận pháp bắt đầu tỏa ra những tia sáng u lam như ánh trăng. Những luồng sáng kia chẳng khác nào linh hồn bay lên từ bốn phương tám hướng, nhộn nhạo như những gợn sóng. Nhan Phi cảm thấy trong không khí có một sự thay đổi lặng thinh âm thầm, một cảm giác chia lìa, trống trải len lỏi thẩm thấu vào giữa mỗi một vi tử, không có bất kỳ tiếng động nào, im lìm ngăn cách y ra khỏi thế giới.
Ánh sáng u lam dần dần nhạt đi, nhưng cảnh tượng bên ngoài trận pháp cũng như thể bị ngăn cách bởi một lớp nước biển dập dờn, không ngừng vặn vẹo run rẩy.
Nhan Phi lấy Dẫn Hồn Linh ra từ trong tay áo, phảng phất như lần đầu tiên nhìn thấy thứ này, y chăm chú nhìn lên hoa văn độc nhất vô nhị uốn lượn bên trên, hoa văn thuộc về Shiva Ma La.
Những chuyện từng trải trong khoảng thời gian ở nhân gian, không những khiến cho y được đến bên cạnh Khiên Na Ma La, mà còn cho y thêm một vài thứ khác. Trước đó, y chưa bao giờ nghĩ tới việc học tập phép thuật của ác quỷ địa ngục, đối với thiên nhân, những phép thuật đó tựa như những trò vặt vãnh thấp kém, vô ích, căn bản không đáng để mắt tới, thậm chí không một ai muốn đi thăm dò thử. Nhưng bây giờ, y hiểu rõ rằng, trên thực tế phép thuật của Thanh Hồng Vô Thường có rất nhiều điểm vô cùng tinh diệu, nếu như có thể phối hợp với rất nhiều phép thuật mà trước kia y đã học được ở thiên đình và thần lực của mình, có lẽ y sẽ có thể phát huy được uy lực vượt qua sự tưởng tượng.
Mấy ngày nay y cứ mãi suy tư, làm thế nào mới có thể tận dụng được hết những phép thuật của Hồng Vô Thường. Sau khi thu được mệnh hồn, y vẫn không hề ngơi nghỉ chuyện học tập phép thuật Hồng Vô Thường, tuy thời gian y thực sự trở thành Hồng Vô Thường không lâu, song từ hơn mười năm trước, y cũng đã tự học được không ít thứ, biết rằng trong đó ẩn giấu không ít kho báu có thể khai thác, phép thuật của Hồng Vô Thường không chỉ có thể thấy rõ hay ảnh hưởng tới lòng người, nếu như sử dụng thích đáng, y sẽ có thể nhờ vào đó để khống chế và ảnh hưởng tới ý thức tập thể của hết thảy sinh linh bên trong lục đạo.
Đêm nay, y chuẩn bị tiến hành lần thí nghiệm đầu tiên.
Dẫn Hồn Linh trôi bồng bềnh giữa không trung, xoay chầm chậm, lắc ra những âm thanh u mị nhịp nhàng. Hai tay y kết ấn, đầu ngón tay tỏa ra ánh sáng nhàn nhạt, vẽ ra từng đường vòng cung có màu lưu huỳnh. Hai mắt y khẽ nhắm, trên trán tràn ngập thánh quang mềm mại, tia sáng kia dần dần trải rộng ra, rời khỏi kết giới khuy cơ trận, lan ra bốn phương tám hướng.
Đầu tiên là quan tình thuật.
Thế giới tình huyền của vô biên vô hạn chúng sinh âm thầm mở ra trước tầm mắt y. Tình huyền của tất cả nhân loại, hoặc mượt mà, hoặc sắc nhọn, hoặc xoắn cuộn rối tung, hoặc có trật tự rõ ràng, hoặc vững vàng, hoặc kịch liệt, hoặc cao ngạo, hoặc sầu muộn, tất cả đều hiển hiện ra trước mặt y, rực rỡ mê người đến vậy, vượt xa bất cứ mỹ cảnh nào trên thiên đình. Y gần như muốn lạc bước giữa thế giới kỳ quái lạ lùng này. Thiên mục bị làm rối mắt trước cảnh tượng chúng sinh rực rỡ sắc thái, cổ họng phát ra tiếng cảm khái khó nén lại kinh ngạc
Trước đó, khi mới là Hồng Vô Thường y cũng đã được nhìn thấy, mà dù sao lúc ấy y vẫn chưa mở thiên mục, thứ nhìn thấy dẫu sao cũng có hạn, càng không thấy được toàn cảnh của thế giới tình huyền. Bây giờ nhìn thấy, mới biết được sự bao la đặc sắc của lòng người.
Ý chừng là vì tuổi thọ của nhân loại có hạn, cho nên trong một thời gian ngắn ngủi, mới có thể nở rộ ra những đóa hoa tình huyền xum xuê đua nhau khoe sắc như vậy.
Y cất thán phục của bản thân đi, bắt đầu ngâm xướng chú văn báo mộng thuật. Y phóng thích sức mạnh thần thánh của mình ra, giăng một tấm lưới mộng cảnh bao la bát ngát. Từ mấy ngày trước, y đã bắt đầu thử nghiệm bện nên mộng cảnh này, đặt vào trước khi thức tỉnh, y tuyệt đối sẽ không dám nghĩ tới mình có thể chế tạo ra một giấc mộng quảng đại đến vậy. Trong mộng lại trùm vào từng tầng mộng cảnh khác nhau, có thể thăm dò cảm xúc của sinh linh, căn cứ vào cơn ác mộng lớn nhất cùng ngóng trông khao khát nhất của bọn họ để rồi thay đổi mộng cảnh.
Trong giấc mộng này, y sẽ cho bọn họ xem “địa ngục biến tướng” thực thụ.
Y sẽ nói cho bọn họ biết, không có cách nào trốn chạy được khỏi địa ngục cả, đặt mình vào trật tự hiện hữu, bất kể là người ngươi yêu hay là thân bằng hảo hữu của ngươi, cũng đều sẽ có một ngày phải rơi vào địa ngục, mãi mãi không thể thoát khỏi.
Ngay đến cả thiên nhân cũng không thể trốn chạy, cho dù bọn họ đã quên mất rằng mình chung quy cũng sẽ có một ngày phải chết đi.
Thế nên vào đêm đó, phần lớn nhân loại đều đã trải qua một giấc mộng hỗn loạn mà kinh khủng, có mấy người trong bọn họ vẫn nhớ được mình mơ thấy điều gì, có vài người tỉnh lại sau giấc ngủ thì lại chẳng nhớ rõ, chỉ còn sót lại dư vị sợ hãi không thôi nào đó làm người lo sợ bất an. Vài người bàn luận với người khác, mà đại đa số vẫn không kể ra, dù sao ác mộng cũng là thứ không thể bình thường hơn được nữa. Có điều, cơn ác mộng đêm nay dường như hơi khác, chân thực hơn, làm người kinh hoàng hơn, kinh hoàng không thể tránh khỏi như đứng trước tử vong. Mọi người nhìn lên cao xanh vẫn giống như thường ngày, làm mỗi việc thường làm mọi ngày, nhưng một cảm giác thấp thỏm bất an sầu lo lại được gieo xuống, chầm chậm nẩy mầm từ đáy lòng.
Mà cùng lúc đó, hết thảy những thầy thuốc của Y Tiên Phái đang ẩn cư khắp chốn cũng đều mơ thấy cùng một giấc mộng. Bọn họ thấy biển mạn châu sa hoa vô cùng vô tận, sắc đỏ mỹ lệ đến mức làm người đau thương trải rộng ra cả đại thế giới, mà thánh quang êm ái từ vị thần linh mặc bạch y đứng đơn độc giữa buội hoa đang chiếu rọi mặt mũi bọn họ, phảng phất như đó là tia hy vọng cuối cùng trong thế giới tăm tối này.
Gần như tất cả bọn họ đều chưa từng thấy tận mắt Ba Tuần, chỉ biết lý niệm của y, sùng kính chí hướng của y. Mà lần này nhìn thấy thần linh, dù không cần mở miệng, bọn họ cũng biết đây chính là thiên thần mà bọn họ đi theo cho tới tận hôm nay, một vị thiên thần có thể sáng tạo nên thế giới mới.
Còn Ba Tuần cũng giao cho tất cả bọn họ một nhiệm vụ.
…………………………
Luôn mấy ngày nay A Lê Đa không hề thấy mặt Ba Tuần. Nghe nói thượng thần cả ngày đều nhốt mình vào sâu trong cung điện, không cho phép bất cứ ai khác tiến vào. Hắn thử dò hỏi tình hình với vài tín đồ hầu hạ Ba Tuần, lại chẳng nhận được gì nhiều, như thể không ai biết Ba Tuần đang làm gì.
Trước mắt, hắn đã nắm bắt được sơ sơ về binh lực dưới trướng Ba Tuần. Sau khi Ba Tuần thức tỉnh, trong số những kẻ lựa chọn quy thuận y, ba phần mười là ác quỷ, một phần mười là tiểu quỷ ở trung âm giới, hai phần mười là yêu tinh, hai phần mười là tu la, một phần mười là nhân loại, còn có một phần mười nữa là thiên nhân. Nhưng nhìn từ sức chiến đấu, nếu như dưới tình huống không có Lục Đạo Quy Nhất trận, cũng chỉ có tu la và thiên nhân là còn có sức chống đỡ khi đối mặt với thiên binh, bất kể là ác quỷ, yêu tinh hay nhân loại, đứng trước mặt thiên binh đều chỉ có thể mặc người giày xéo.
Chúng ma binh dần dần từ khắp các nơi trong lục đạo quy tụ về địa ngục Cô Độc được chia ra làm tám bộ, ác quỷ chiếm hai bộ, do A Lê Đa thượng tướng quân quỷ bộ và Dạ Ma tướng quân lĩnh binh. Thiên nhân bộ thì do Vũ Khúc tinh quân và Thiên Lương tinh quân của Tha Hóa Tự Tại Thiên thống lĩnh. Tu la có La Hầu Vương, tiểu quỷ cũng có quỷ vương của riêng mình, yêu tinh thì được dẫn quân bởi hai vị thú thần từ thiên đình hạ giới — mãng thần Ma Hô La Già và hầu thần Cáp Nô Mạn. Lần này, trong số những đại tướng theo Ba Tuần đi đến nhân gian, ngoài hắn còn có cả một vị Vũ Khúc tinh quân. Nghe đâu vị tinh quân này hết sức trung thành với Ba Tuần, cương trực công chính, đã vậy hình như còn có cái nhìn hơi phiến diện đối với ác quỷ, đối với hắn cũng chẳng tín nhiệm là bao, âm thầm phái không ít thủ hạ giám thị hắn. A Lê Đa biết tất cả những chuyện này đều được tiến hành dưới sự ngầm cho phép của Ba Tuần, có thể thấy được Ba Tuần cũng chưa hoàn toàn tín nhiệm hắn.
Cũng không có gì khó hiểu cả. Lập trường của hắn vẫn luôn lơ lửng không rõ, đặc biệt là quan hệ giữa phụ vương hắn và thiên đình càng đặc biệt dễ làm người hoài nghi. A Lê Đa có vẻ cũng không nóng vội, mỗi ngày đều chỉ bận bịu chăm nom vết thương của Mộc Thượng Kê, dường như đã quên luôn mục đích của chuyến đi này.
Đồng Tụ đã thuê một vài thợ mộc trên đất liền chế tạo một cỗ xe lăn bằng gỗ, rồi dìu Mộc Thượng Kê tới ngồi lên. Hiện giờ Mộc Thượng Kê đã có thể dùng hai tay đẩy bánh xe để hành động trong phạm vi nho nhỏ, có lúc cũng có thể chống gậy, dùng cái chân quý giá còn sót lại đi dạo trong sân. Vừa vào cửa, A Lê Đa đã nhìn thấy Mộc Thượng Kê dừng lại giữa đình viện, hơi ngửa mặt lên phơi nắng, tia sáng nhu hòa lưu chuyển trong cặp mắt dài mảnh, khiến cho khuôn mặt tầm thường cũng thoáng hiện lên vẻ mỹ lệ trong chốc lát.
“Trên đảo nở rất nhiều hoa lê, để ta đẩy ngươi đi ra xem ngoài xem đi.” A Lê Đa mỉm cười nói.
Mộc Thượng Kê mở mắt ra, nhàn nhạt liếc mắt nhìn hắn, không nói gì.
A Lê Đa coi như hắn đã đồng ý, liền đẩy hắn ra sân, đi dọc theo con đường uốn lượn quanh co, rẽ qua từng toà họa lâu chu các, đạp lên con đường nhỏ trải đầy lá đi về hướng bờ biển. A Lê Đa nói không sai, trên con đường dẫn về phía vách đá quả thật có một loạt những gốc lê đang ra hoa, hoa lê như tuyết li ti rơi rắc đầy trời, bay lả tả sa xuống tà áo vải màu chàm của Mộc Thượng Kê.
Mộc Thượng Kê nhìn cảnh đẹp tựa như mộng như ảo, ngửi lấy hương thơm trong veo của hoa lê, bỗng nhiên ngâm khẽ, “Tầm thường bách chủng hoa tề phát, thiên trích lê hoa dữ bạch nhân. Kim nhật giang đầu lưỡng tam thụ, khả liên hòa diệp độ tàn xuân.” (Trăm hoa đua nở hái nhành hoa lê, tặng người con gái trắng như ngọc. Nay đứng lặng như đôi ba cây bên bờ, lẻ loi bên một phiến lá vượt qua xuân tàn. – “Ly tứ ngũ thủ” của nhà thơ Nguyên Chẩn)
A Lê Đa không hiểu Mộc Thượng Kê đang nói gì, tuy hắn cũng có thể xem như tinh thông ngôn ngữ nhân loại, nhưng đối với mấy thứ như thi từ ca phú mà dưới cái nhìn của hắn thì chẳng có tác dụng gì, hắn cũng lười tốn thời gian vào. Chẳng qua chỉ cảm thấy âm điệu những câu thơ này rất đẹp, song sắc mặt của Mộc Thượng Kê lại có vẻ tịch liêu nặng nề.
“A Mộc, ngươi đang nói gì vậy?”
Mộc Thượng Kê nói, “Nhớ tới một bài thơ của cổ nhân thôi.”
“Tuy ta không hiểu, nhưng cảm giác có vẻ không phải là một bài thơ vui?”
“Đúng là không phải.” Mộc Thượng Kê khẽ cười nói, “Chân cũng mất rồi, làm sao vui nổi?”
A Lê Đa sững sờ. Từ khi bị cưa chân cho tới nay, Mộc Thượng Kê đều biểu hiện hoàn toàn bình tĩnh lạnh nhạt, ngay đến cả nói cũng nói rất ít. Đây là lần đầu tiên hắn để lộ ra một chút thống khổ, dù rằng hắn vẫn đang mỉm cười.
A Lê Đa hơi dừng bước lại, xoay người ngồi xổm xuống, ngẩng đầu lên nhìn mặt Mộc Thượng Kê. Hắn im lặng trong chốc lát, rồi nghiêm túc nhìn Mộc Thượng Kê, “Là ta hại ngươi, ta sẵn sàng bồi thường cho ngươi. Bất kể ngươi muốn ta làm gì, ta cũng đều sẽ làm vì ngươi.”
Mộc Thượng Kê lại dường như chẳng hề cảm động mảy may, chỉ hơi cau mày lại như có phần sầu lo, nói, “Ngươi còn muốn lấy được thứ gì từ trên người ta nữa? Liên quan tới Y Tiên Phái? Hay là liên quan tới A Tu Vân?”
A Lê Đa cũng cau mày như thể không hiểu, “Ta đang học theo nhân loại các ngươi nói xin lỗi, ngươi lại nhắc người khác với ta để làm gì?”
“A Lê Đa, ngươi là ác quỷ, ngươi không có thứ tình cảm hổ thẹn này.” Mộc Thượng Kê dùng giọng điệu bình thản nói, “Có lẽ tiên quân và thượng thần coi trọng thứ ngươi đang nắm trong tay, chịu tiếp thu cái gọi là quy thuận của ngươi, nhưng chính ngươi đã thừa nhận với ta, điều ngươi muốn là hỗn loạn vô cùng vô tận. Ngươi không thuộc về bất kỳ phe phái nào. Sở dĩ ngươi ở đây, nhất định là có mục đích của ngươi. Ta chỉ là tiểu tốt, lời nói không có sức thuyết phục tiên quân, song ta cũng không phải kẻ ngốc. Nói thẳng đi, ngươi muốn gì?”
Trong lòng A Lê Đa bỗng dâng lên một cơn phẫn nộ.
Có lẽ cho tới nay, đúng là hắn đã ôm ý đồ khó lường, có lẽ từ nhỏ đến lớn hắn chưa từng nói ra mấy câu nói thật lòng. Thế nhưng vừa nãy, những câu hắn nói với Mộc Thượng Kê đều là thật.
Hắn cũng không hiểu tại sao mình lại không buông bỏ được thầy thuốc nhân loại không đẹp đẽ cũng không thông minh thậm chí đã chẳng còn giá trị gì để lợi dụng này, nhưng khi nhìn thấy ánh mắt trống rỗng của hắn khi lạnh lùng nói với Đồng Tụ cưa bỏ chân mình, A Lê Đa đã cảm thấy sâu trong trái tim tràn đầy giả dối và tê dại thuộc về ác quỷ của mình đang nhoi nhói đau.
Một cảm giác xa lạ, hắn không hề thích.
Là thông cảm, thương hại sao? Nhưng hắn chưa bao giờ có thứ này. Trong thế giới của quỷ, chỉ kẻ yếu mới có thể ôm nhau sưởi ấm, thương hại lẫn nhau.
Hắn được dạy dỗ như vậy mà lớn lên.
Hắn đè nén cơn phẫn nộ cùng với phần oan ức mà hắn không muốn thừa nhận xuống, dùng giọng điệu không quá có sức thuyết phục nói, “Trước kia đúng là ta đã lợi dụng ngươi, nhưng ta không định tiếp tục lợi dụng ngươi nữa.”
“Cho nên ta cần phải cảm ân đái đức?” Bên trong con mắt dài mảnh của Mộc Thượng Kê loé lên một tia nhuệ khí, nỗi uất hận vẫn luôn bị ngột ngạt đến lúc này mới rỉ ra mảy may. Nhưng hắn đã thu hồi lại tia nhuệ khí ấy ngay lập tức, “Thôi, ta không muốn bàn lại chuyện cũ. Có điều, ta thật ra lại muốn khuyên ngươi một câu. Nhanh chóng thu hết tai mắt trà trộn trên đảo đi. Thượng thần vẫn chưa tin tưởng ngươi, vẫn luôn nhìn chằm chằm vào ngươi. Ngươi tự cho rằng mình đã làm rất kín đáo, thực tế là đã đánh giá cao bản thân mình rồi.”
A Lê Đa thoáng kinh ngạc, không ngờ Mộc Thượng Kê sẽ nói ra một loạt câu như vậy. Hắn đứng lên, ngẫm nghĩ cẩn thận hàm ý trong lời của Mộc Thượng Kê.
Mà Mộc Thượng Kê thì lại tiếp tục nói, “Từ nhỏ ta đã đi theo tiên quân, không phải không hiểu gì ngài. Tiên quân không phải loại người sẽ đặt cược hết vào một kẻ mà ngài ấy không đủ tin tưởng. Ngay cả đối với thượng thần, ngài cũng có điều giữ lại cho mình. Ngươi thật sự cho rằng chỉ mình ngươi nắm anh cổ trong tay?”