Trước màn tiếp đãi thiếu thịnh tình của Hồi Đằng, nhóm công chúa vẫn tiếp tục bước. Cơn mệt mỏi, cơn khát, cơn đói bắt đầu xâm lấn khắp cơ thể, song chừng ấy không khiến họ dừng chân. Quãng đường tính từ đầu sa mạc tới ngọn Dương Hoa Tụ dài gần bốn trăm (400) cây số, nếu cho rằng Ác Lạc Điểu cần khoảng ba tuần hồi phục thì mỗi ngày nhóm Lục Châu phải đi hai mươi (20) cây số. Lý thuyết là vậy song trên thực tế, nhóm bốn người nên đi xa hết mức có thể, bởi chẳng ai biết trong ba tuần sẽ có biến cố gì. Họ có thể tránh Đầu Sói nhưng nhiều khả năng sẽ chạm trán bọn trộm cướp. Do vậy càng đi được xa bao nhiêu, họ càng dư thời gian giải quyết rắc rối bấy nhiêu.
Nhóm công chúa đã đi được gần mười cây số, hiện giờ đang băng qua một triền cát lớn. Triền cát cao hơn bề mặt sa mạc khoảng năm sáu mét, trải dài năm cây số theo hướng tây nam và có hai mặt dốc: dốc bên phải phẳng lì, độ nghiêng khá lớn trong khi dốc bên trái thoải hơn nhưng lồi lõm hơn. Đường trên triền cát khá lún, mỗi bước đi là mỗi lần cát ngập tới cổ chân, tốn sức vô cùng. Nhưng đây là lựa chọn thuận lợi nhất dành cho nhóm công chúa. Phía dưới mặt dốc bên trái triền cát, một vùng toàn cung đồi chạy ngang dọc tán loạn, tựa tường thành tự nhiên ngăn cản sự xâm nhập từ bên ngoài, hầu như không có lối đi khả dĩ. Còn bên cạnh mặt dốc bên phải là vương quốc của hằng sa số gò cát mọc lố nhố cao quá đầu người; lần đầu thấy chúng, Vô Phong và Lục Châu chợt nhớ về ký ức kinh hoàng ở “đất chết” đất Lạc Việt. Đứng trước hai khu vực kể trên, bọn họ buộc phải bộ hành qua triền cát. Chốc chốc, từng cơn gió từ đằng đông ào ạt vượt qua dãy đồi táp vào bốn người bộ hành, lấp hết những dấu chân của họ. Gió thổi mạnh như muốn ném họ ra khỏi con đường, thỉnh thoảng rít lên tràng âm thanh “U… u…” rợn tóc gáy, tưởng chừng có tiếng khóc ai oán quẩn quanh. Đừng bảo lại có một “đất chết” khác nhé? – Vô Phong thầm nhủ.
Suy nghĩ vớ vẩn ấy không tồn tại lâu trong đầu gã tóc đỏ. Bị gió buốt vỗ mặt liên tục, lại thêm nhiệm vụ giám sát Chiến Tử, hắn phải trở về hiện thực khắc nghiệt của sa mạc thay vì nấn ná với suy tưởng. Nhìn công chúa chán, hắn lại quay sang theo dõi Chiến Tử, thâu tóm mọi hành vi của gã bằng trí nhớ. Nhưng đây không phải công việc mà hắn ưa, đằng thẳng ra là căm thù. Vốn thích tự do, Vô Phong ghét chuyện mình bị soi mói lẫn soi mói người khác. Phiền nỗi hắn chẳng sửa nổi cố tật mồm đi trước suy nghĩ cất bước theo sau. Chỉ vì đại thánh sứ Tây Minh nhắc đến “công chúa”, hắn lỡ há miệng mắc quai, giờ phải lãnh thứ trách nhiệm chết tiệt này. Tên tóc đỏ thấy mình đang trở thành một con cú vọ, một Mai Hoa thứ hai. Cái miệng hại cái thân mà! – Hắn thở dài.
Nếu cứ chăm chăm công việc giám sát nhàm chán, Vô Phong đã lăn ra ngáp ngáp từ lâu. May mắn cho gã tóc đỏ, hắn vẫn còn một thứ vừa để tiêu khiển vừa tiện việc luyện tập: Phong kỹ. Không cần phải mang một hòn sỏi nhỏ như lúc trước, giờ đây hắn có cát – đống tài nguyên vô tận của sa mạc Hồi Đằng. Bằng Phong kỹ, hắn “bốc” cát từ dưới chân rồi điều khiển chúng bay vòng quanh cánh tay mình. Nếu có trẻ con ở đây, chẳng hạn như Liệt Trúc, con bé sẽ trố mắt ngắm nhìn không biết chán. Nhưng bản thân Vô Phong không hài lòng. Mỗi lần thi triển Phong kỹ, dòng cát bị khựng lại, quần tụ thành khối lớn một lúc lâu, sau mới tiếp tục chuyển động – cứng nhắc giật cục hệt một đoàn tàu hỏng hóc động cơ, chẳng hề linh hoạt thanh thoát như hắn mong đợi.
Phong kỹ là loại bí kỹ cho phép nâng ngoại vật, nguyên tắc khá đơn giản: dùng gió tạo ra một lực đẩy lớn hơn trọng lượng ngoại vật. Ví dụ để nâng một hòn đá bằng Phong kỹ, Vô Phong cần tập hợp gió tạo lực đẩy vào phần dưới hòn đá. Nếu hắn tạo một lực đẩy mạnh tác động vào hòn đá theo góc bốn mươi lăm độ từ dưới lên, nó sẽ văng đi như thể có người ném, lực đẩy càng mạnh, tốc độ văng càng lớn, lực đẩy tác động từ chiều nào, đá văng theo chiều ấy. Mở rộng nguyên lý, nếu tạo lực đẩy vào vũ khí, tốc độ đòn đánh sẽ tăng lên. Vô Phong giác ngộ kỹ thuật này trên đường tới Hoành Sơn, mà đường kiếm xô đổ giới hạn mười ba mét một giây (13m/s) chính là thành quả. Mặc dù chưa thành thục, cũng chưa thể tái lập đường kiếm xuất thần ấy nhưng hắn đã nắm được nguyên lý cơ bản.
Tuy nhiên điều khiển ngoại vật di chuyển theo ý muốn phức tạp hơn thế, cần nhiều lực khác nhau thay vì chỉ một lực đẩy tác động ngoại vật, lại cần cả sự tương tác qua lại giữa các lực đẩy. Chẳng hạn để điều khiển một hòn đá bay lượn trong không trung, Vô Phong cần tạo nhiều lực đẩy tác động vào nó, đồng thời vẫn phải duy trì lực đẩy từ bên dưới và nếu mất lực này, hòn đá sẽ rơi. Lý thuyết khó là vậy, thực hành còn khó gấp mười. Dù rất cố gắng nhưng dòng cát trên tay gã tóc đỏ đang di chuyển theo kiểu bị cưỡng bức, hoàn toàn thiếu tính tự nhiên – tính chất căn bản nhất của Phong kỹ.
Gió buốt từ bóng tối quất lên người Vô Phong, lôi hắn ra khỏi thế giới của bí kỹ. Tên tóc đỏ giật mình, vội vàng nhìn về phía công chúa rồi thở phào khi thấy nàng vẫn ổn. Qua kính nhìn đêm, hắn phóng tầm mắt về đằng đông, quét xuống phương nam rồi lại ngoảnh sang mạn tây. Cát, cát, cát… và cát, ngoài ra chẳng còn thứ gì khác trên miền đất hẻo lánh này, họa chăng có phi thuyền Ưng Xám phát ánh đèn hiệu màu đỏ ở mãi tít trên cao. Ánh đèn ấy tựa con đom đóm nhỏ bé du hành giữa vũ trụ mênh mông vô tận, vô tình gieo nỗi cô độc trơ trọi vào tâm trí những kẻ bộ hành phía dưới. Vô Phong chợt thèm bầu trời đầy tiếng thét của loài đọa ngã ở đất thánh hay không gian rợp bóng lạc điểu tại đất Lạc Việt. Thèm khát bao nhiêu, hắn chán nản mảnh đất này bấy nhiêu. Sự im lặng khổng lồ của sa mạc Hồi Đằng lết theo từng bước chân tên tóc đỏ và khiến hắn phát bệnh. Bộ não hắn đang bị sa mạc hóa: khô cằn, thiếu nước, thiếu luôn ý thức về thực tại.
Không riêng gì Vô Phong, những người khác trong đoàn đều thấm mệt. Mười cây số trên sa mạc không như mười cây số đường bằng, nhất là sa mạc Hồi Đằng, nhóm công chúa tới được đây là hơn người thường nhiều lần. Chỉ duy nhất Chiến Tử vẫn vững vàng, gã như cỗ máy hoạt động không ngừng nghỉ. Lục Châu tính chuyện nghỉ chân, tuy vậy anh chàng A1 của tổ Ưng Xám cho rằng chưa phải lúc thích hợp:
-Không nên nghỉ ở đây, thưa công chúa. Hãy đi hết đường triền, phía cuối đường có nhiều chỗ an toàn hơn, hãy nghỉ chân ở đó!
Đường triền này cao hơn bề mặt sa mạc, lại là nơi hứng gió, nếu nghỉ chân ở đây, cả bốn người sẽ sớm bị vùi lấp. Không còn cách nào khác, họ phải tiếp tục đi. Mặc dù con đường bắt đầu thoải dốc, thế nhưng họ vẫn gặp khó khăn với mặt cát lún, tốc độ di chuyển chẳng hề nhanh hơn trước. Cùng lúc ấy, gió ngày càng mạnh, mang theo nhiều luồng cát cứa ngang qua mặt họ. Dù đã bịt kín mặt nhưng Vô Phong vẫn cảm thấy độ ram ráp, sàn sạn của từng hạt cát tựa những mũi dao nhỏ li ti. Hồi Đằng không chỉ xua đuổi mà còn đang tìm cách giết người.
Nhóm công chúa mất thêm nửa tiếng nữa mới thoát khỏi triền cát đau khổ. Trước mắt họ bây giờ là một vùng lòng chảo lớn, thấp hơn mặt sa mạc khoảng ba bốn mét. Vùng lòng chảo không bằng phẳng mà mấp mô bởi vô số đụn cát trải dài đến tận chân trời phía nam, chen giữa các đụn là nhiều triền cát ngắn và thấp. Điều đáng nói là sau vài bước dợm thử, Vô Phong cảm thấy mặt cát ở đây có kết cấu khá vững, không sụt lún như đường triền ban nãy. Bất quá điều tên tóc đỏ muốn bây giờ là nghỉ, ngủ hoặc ngáy.
Bốn người chọn một chỗ nghỉ ngơi kín đáo phía sau triền cát. Chiến Tử lôi từ trong ba lô ra những khối kim loại hình lục lăng và đặt chúng ở giữa. Gã đánh một mồi diêm ném vào đám kim loại, tức thì bùng lên ngọn lửa màu cam. Lửa nóng nhưng không có khói, không phát sáng ra xung quanh, những khối lục lăng cũng chẳng hề mòn đi giống như củi than. Chúng là “Hỗ Thạch” – loại vật liệu có khả năng khuếch đại và giữ nhiệt năng, dùng được trong mọi môi trường. Ở một góc độ nào đấy, chúng rất giống bí kỹ “khuếch đại” của Tàn Thi (*). Người Kim Ngân vẫn dùng Hỗ Thạch để băng qua sa mạc. Nhờ ngọn lửa, cả đám tạm quên đi khí hậu giá rét và cơn buồn ngủ đang xâm lấn đầu óc. Mai Hoa mở tấm bản đồ đoạn nói:
-Chúng ta đang ở lòng chảo Hồi Đằng. Cứ tiếp tục đi theo hướng tây nam, thị trấn đầu tiên cách đây hai trăm cây số, nhưng tôi e với tốc độ này thì năm ngày nữa mới đến nơi.
Lục Châu cắn môi suy nghĩ. Đường lòng chảo tuy bớt khắc nghiệt hơn nhưng bộ hành trên cát vẫn tổn hao sức lực, miễn cưỡng đẩy nhanh tốc độ sẽ gây hậu quả ngược. Làm cách nào đây? – Nàng tự hỏi.
Chiếc vòng tay của công chúa chợt phát sáng, thông báo cho nàng biết có tin tức mới từ Thần Sấm. Lục Châu gỡ chiếc vòng và nó tự động sắp xếp thành khối hình trụ phát ảnh ba chiều. Vô Phong thoáng thấy những bức ảnh cùng một tấm bản đồ. Công chúa đọc một lúc rồi xoay màn ảnh về phía ba người còn lại:
-Mọi người đọc đi.
Vô Phong nhận ra trên màn ảnh là hình chụp ba Đầu Sói thống lĩnh các thị trấn ở sa mạc Hồi Đằng. Hắn không dám chắc trong ba kẻ Đạt Ba, Quỷ Nhãn và Hiệp Dung, ai là kẻ nguy hiểm nhất, bởi lẽ gã nào cũng tiềm tàng nguy cơ chết chóc từ gương mặt cho tới dáng dấp. Nhưng nếu phải lựa chọn, hắn sẽ đề cử Quỷ Nhãn. Cái tên cao lênh khênh có cặp mắt quái lạ ấy khiến hắn bất an. Dù vậy, con lợn béo ú Đạt Ba cũng chẳng hề kém cạnh và thị trấn đầu tiên mà bọn Vô Phong hướng tới lại nằm trong lãnh địa của gã. Mai Hoa thở dài:
-Toàn bọn đầu bò đầu bướu, Đầu Sói nỗi gì?
Vô Phong bật cười trước lời đùa cợt của gã. Nhưng công chúa không cười nổi. Mỗi gã Đầu Sói sở hữu từ hai trăm cho tới ba trăm lâu la, hợp lại chẳng khác nào một tiểu đoàn. Nhìn vào lượng quân số khủng khiếp này, nàng không dám chắc có thể lọt vào hang ổ của chúng chứ đừng nói tìm được đường đến Dương Hoa Tụ. Trông dáng vẻ bồn chồn lo lắng của Lục Châu, Mai Hoa trấn an:
-Cứ cẩn thận là được thôi, công chúa. Nếu khéo léo, sẽ chẳng ai phát hiện ra chúng ta.
-Mấy cái thị trấn ấy toàn người của Đầu Sói, sao họ không phát hiện ra cơ chứ? – Công chúa nói.
Mai Hoa nhún vai:
-Phải. Nhưng Đầu Sói khác trộm cướp ở chỗ họ có luật lệ và quy tắc. Mỗi thị trấn do họ quản lý có quyền tự trị và hàng tháng phải đóng phí bảo kê. Cứ tưởng tượng Đầu Sói là hoàng đế, băng đảng của hắn là chính phủ, làm theo chính phủ và hoàng đế, chúng ta sẽ an toàn.
Tất nhiên bọn công chúa cần nhiều thứ khác mới có thể đường hoàng tiến vào lãnh địa của Đầu Sói, nhưng tựu chung không khó, cơ bản phải “chơi” đúng luật do Đầu Sói đề ra. Nhưng giờ này bàn chuyện mấy thị trấn e rằng xa xôi, việc trước mắt mà nhóm công chúa cần làm là vượt qua hai trăm cây số trong bí mật và an toàn. Nếu để ai đó biết được “công chúa Phi Thiên quốc” đang có mặt ở Hồi Đằng, lập tức hàng tá Đầu Sói, phiến quân lẫn trộm cướp sẽ đổ về đây săn lùng nàng.
-Tin tình báo nói Đạn Đạo, người mang biệt danh “Lục Ổ Xoay” cũng ở vùng đó. – Lục Châu lên tiếng – Nếu tìm được Đạn Đạo, hy vọng ông ấy sẽ giúp chúng ta.
Mai Hoa ngạc nhiên:
-Đạn Đạo, một trong bảy người mạnh nhất thế giới hả?
Công chúa gật đầu:
-Đúng thế. Hồi nhỏ, tôi từng gặp ông ấy một lần.
-Thật sao? – Mai Hoa trố mắt – Ông ta làm gì với Phi Thiên vậy? Công tác đặc biệt chăng?
Câu hỏi của gã bốn mắt mang tính móc máy nhiều hơn tò mò, tuy vậy công chúa vẫn nhã nhặn trả lời:
-Ông ấy từng làm Hộ vệ thánh sứ cho Phi Thiên chúng tôi, là hộ vệ cho ai thì tôi không nhớ rõ.
-Ở Đại Hội Đồng không có bất cứ tấm ảnh nào về Đạn Đạo cả! Cô nhớ dung mạo ông ấy chứ?
Đôi mắt Mai Hoa sáng rực, dù ngồi cách xa nhưng Vô Phong có thể thấy mắt gã đang chiếu tia sáng soi rọi màn đêm. Cái mặt Mai Hoa hiện lên đầy đủ phẩm chất của một con cú vọ đã thấy mồi, nó quyết không để lọt miếng ăn béo bở này. Lục Châu ngại ngùng trước biểu cảm thái quá của gã nhưng vẫn từ tốn đáp:
-Tôi không nhớ lắm, vì hồi ấy còn bé. Chỉ nhớ ông ấy hay ngậm một cọng cỏ dài và đội một chiếc mũ rộng vành. Vậy thôi!
Mai Hoa chép miệng:
-Chà, chà! Cảm ơn cô, công chúa! Mấy vị biết đấy, chẳng ai biết rõ dung mạo của bảy người mạnh nhất cả, thế nên mấy thông tin này hữu ích lắm! Người ta bảo những đối thủ khiêu chiến Đạn Đạo chỉ sống được hai giây, từ lúc xướng danh cho tới khi gục xuống. Người ta bảo Đạn Đạo là kiếm sĩ, có người bảo ông ta là pháp sư, thậm chí thánh sứ.
-Thế rốt cục ổng là cái gì? – Vô Phong hỏi.
-Tôi không biết. – Mai Hoa lắc đầu – Tôi nghĩ ông ấy là pháp sư với phép thuật hùng mạnh. Có những loại ma thuật giết người trong nháy mắt, hẳn ông ta sở hữu chúng.
-Súng cũng giết người trong nháy mắt mà?
Mai Hoa lắc đầu:
-Súng chỉ có tác dụng trong quần chiến hoặc chiến trường lớn. Trong những cuộc đấu tay đôi, nó hầu như không có tác dụng.
Và sau đó gã cú vọ tuôn một tràng dài dằng dặc về chuyện đánh tay đôi. Gã nói rất có nghề và đầy kinh nghiệm, dù kỹ năng chiến đấu của gã dở như hạch. Vô Phong cũng không ngăn cản, cứ mặc kệ gã phát thanh. Giữa không gian tẻ nhạt này, kiếm được một gã hoạt động cơ mồm không biết mệt kể cũng hay.
Sau nửa tiếng, công chúa cảm thấy nghỉ ngơi như thế là đủ. Chiến Tử bèn vùi cát dập ngọn lửa rồi cất Hỗ Thạch vào ba lô. Họ xóa sạch mọi dấu vết tố cáo mình đã lưu lại nơi này, sau đó mới tiếp tục cuộc hành trình. Trước lúc khởi hành, Chiến Tử phân phát cho mỗi người một lon nước nhỏ. Tên tóc đỏ tưởng nước giải khát bèn bóc nắp lon tu ừng ực. Ai dè mới nuốt ngụm đầu tiên, hắn gần như tắc thở trước vị ngọt khé cổ của lon nước. Tên tóc đỏ phun phì đống nước, ho sù sụ, thở không ra hơi:
-Con bà nó… nước gì thế này?
-Nước tăng lực của Thổ Hành. – Chiến Tử trả lời.
Món nước tăng lực thực ra có phần tương tự chiếc bánh đen mà Vô Phong vẫn thường dùng trong các trận chiến. Tuy nhiên, nó chỉ giúp duy trì thể lực, tăng hưng phấn trí não chứ không phục hồi thể trạng ngay lập tức hay gây tác dụng phụ (**). Dù vậy, giống chiếc bánh đen, món nước ngọt khủng khiếp và rất dễ sốc óc nếu không chuẩn bị tinh thần trước khi sử dụng. Chiến Tử nhìn Vô Phong từ đầu đến chân rồi nói:
-Rơi vãi hết rồi đấy.
Nói rồi gã mặt lạnh bỏ đi, bỏ mặc Vô Phong dính nước tùm lum tùm loe trên áo. Trời đang lạnh, gặp cảnh này thật chẳng hay ho tí nào. Lục Châu hỏi han:
-Anh ổn chứ? Cần thay áo không?
Tên tóc đỏ xua tay tỏ vẻ ổn. Bắt đầu từ đó, địa vị Chiến Tử trong đầu hắn tụt hạng thảm hại, từ “chó săn” xuống “con chó săn đểu giả”.
Sau khoảng mười phút đi trên vùng lòng chảo, lần đầu tiên nhóm công chúa cảm thấy dễ thở tính từ lúc họ bắt đầu vào sa mạc. Quả thực nơi đây có bề mặt cát khá vững chắc, ít chỗ sụt lún, hầu như không khác đất bằng là mấy. Vì là vùng lòng chảo nên gió bị cản trở và không thể rờ những ngón tay lạnh buốt của mình lên bốn người bộ hành, chỉ khẽ thoảng như hơi thở chậm rãi pha chút ngại ngùng của giá lạnh. Vượt qua đèo cát và cung đồi ở phía trên, gió rót âm thanh êm dịu xuống vùng lòng chảo thay vì gào thét như trên đường triền cát. Trong thanh âm dịu êm có những âm trầm thấp đương ngân xướng, tựa những lưỡi mỏ neo thả vào tâm hồn người rồi chìm dần, chìm dần, khi chạm tới đáy lòng thì khẽ đào lên một chút ký ức. Hòa mình trong giai điệu đó, con người tìm thấy tâm sự của mình, sau lại tò mò muốn khám phá tâm sự của chính sa mạc.
Hồi Đằng đang có nỗi buồn riêng.
Nhóm công chúa duy trì vận tốc vừa phải theo hướng tây nam. Ở hướng này, số lượng đụn cát ít hơn, mở ra nhiều con đường thênh thang rộng mở dẫn tới trung tâm lòng chảo. Nhóm công chúa chọn những lối như thế mà đi. Vô Phong có cảm giác con đường đang dẫn xuống sâu hơn, bởi dãy đồi phía ngoài lòng chảo dần cao lên trong mắt hắn. Giờ đây, xung quanh hắn, gió chỉ như mành lụa khổng lồ khẽ phe phẩy, hất lên cuộn bụi mong manh từ những đụn cát muôn hình vạn trạng. Từng cuộn bụi trôi lướt nhanh trong không trung rồi tan biến tựa bọt biển. Từ trên cao, thi thoảng lại có đợt gió từ sa mạc tràn xuống với tốc độ chậm chạp. Chúng – những cơn gió ấy – đã hết mình trong bài ca gào thét, để rồi khi sức cùng lực kiệt lại trầm mình trong vùng lòng chảo, mang theo đám mưa bụi lây rây rắc xuống, tựa lời trăng trối trước lúc tan biến. Nhóm công chúa lặng lẽ di chuyển trên con đường cát rộng mênh mông, bóng dáng họ mờ mờ dưới làn mưa cát. Mới lúc trước, họ còn muốn thoát khỏi Hồi Đằng càng nhanh càng tốt, giờ lại muốn đi sâu vào nó, tìm kiếm mối tâm sự của nó phía sau bản âm hưởng gió và cát đầy buồn bã.
Sau một tiếng, nhóm công chúa đi được thêm mười cây số. Con đường dưới chân họ hẹp dần do nhiều gò cát xen lấn. Càng tới cuối đường, gò cát xuất hiện càng dày đặc, cuối cùng kết thúc ở một dải đồi nằm chắn ngang. Bọn Lục Châu chẳng còn cách nào khác là vượt qua nó. Lúc này, cô nàng A2 của tổ Ưng Xám nói với bốn người qua bộ đàm:
-Hết dải đồi này, mọi người sẽ vào trung tâm lòng chảo và di tích Hồi Đằng Cô Mộ. Chúng tôi không thấy dấu hiệu gì bất thường, nhưng hãy cảnh giác.
Vô Phong hỏi lại:
-Hồi Đằng Cô Mộ là cái gì?
Cô gái A2 cười đoạn trả lời:
-Lát nữa anh sẽ thấy thôi.
Dải đồi trước mặt họ không cao lắm, ước chừng khoảng ba bốn trăm mét. Nhưng đường lên đỉnh khá dốc, buộc nhóm công chúa phải chống gậy leo lên. Mai Hoa đi trước, ba người còn lại theo sau. Những cây gậy mà họ đang sử dụng được làm bằng kim loại đặc biệt, khi sục vào mặt cát sẽ tạo trọng lực nén xuống phần đầu gậy, cố định vị trí và giúp họ có điểm tựa vững chắc hơn. Song đường sườn đồi có nhiều hục cát lún khiến Vô Phong dẫm phải rồi trượt chân, tay không kịp bám gậy, ngã lăn xuống chân đồi. Mấy lần như thế báo hại tên tóc đỏ hì hục trèo lại từ đầu, vừa trèo vừa chửi hết “con bà nó” lại “con mẹ nó”. Khổ nỗi càng chửi, hắn lại càng mệt, hai má thở phì phò không ra hơi. Sau rốt công chúa bèn dừng bước, đợi Vô Phong tới nơi thì chìa tay ra trước mặt hắn. Tên tóc đỏ lắc đầu:
-Không cần đâu, công chúa… hộc, tôi tự đi được, hộc…
Trông bộ dạng lem nhem dính đầy cát của hắn, Lục Châu mím miệng cười song không nói gì. Vô Phong đành nắm lấy tay nàng mà đi. Chẳng hiểu vận số đen đủi thế nào, tên tóc đỏ dẫm tiếp mấy hục cát lún nữa, may có công chúa kéo lại chứ không lại lăn xuống vạch xuất phát dưới chân đồi. Mang tiếng bảo vệ công chúa mà giờ phải để nàng giúp mình, thâm tâm Vô Phong thấy nhục dần đều. Cơ mà được tha hồ nắm tay công chúa, cái nhục này cũng hạnh phúc lắm, hé hé hé! – Tên tóc đỏ nén nụ cười đê tiện vào lòng.
Bốn người mất nửa tiếng mới đặt chân lên đỉnh đồi. Thứ đầu tiên họ cảm nhận được là tiếng gió hoàn toàn thay đổi, nó êm ru nhưng trong trẻo, tựa được cất lên từ một thanh quản đầy nữ tính. Cát quần tụ, gần như ngưng đọng trong không trung, dựng nên một bức màn mỏng mờ mờ che mắt cảnh vật bên dưới chân đồi. Khi bàn tay của gió vén bức màn cát sang một bên, nhóm công chúa nhận ra họ đã tới vùng trung tâm lòng chảo. Và cũng ở đây, Vô Phong tìm được đáp án cho câu hỏi vừa nãy. Đứng từ đỉnh đồi, hắn có thể thấy cách chân đồi khoảng năm trăm mét là một quần thể kiến trúc đổ nát tụ tập phía sau dải tường thành nứt vỡ. Khối quần thể bị chôn ngập trong sa mạc, chỉ chừa một phần thân thể của chúng trên mặt cát, đủ để người ta hiểu rằng đã có một nền văn minh từng tồn tại. Nơi đây là di tích Hồi Đằng Cô Mộ.
Bốn người tiếp tục đi xuống chân đồi, bước qua một đường triền thấp rồi tiếp cận dải tường thành đá màu xám, dưới chân đầy rẫy đá vụn đá tảng. Nó chỉ cao quá đầu người một chút, nhưng nếu không có cát, chiều cao thực tế phải gấp khoảng mười lần. Mặt tường thành đầy rẫy vết nứt chân chim và vô số tảng cát tựa rêu mốc đã bám dính suốt thời gian dài. Nhóm công chúa bước qua một khe nứt lớn của bức tường, sau tiến nhập khu di tích. Càng đi sâu, phế tích hiện lên trước mắt họ càng nhiều. Trên con đường cát, họ bắt gặp vài ba mái chóp nhọn đóng bụi nằm ngổn ngang, trước kia từng là đỉnh cao của những tòa tháp nào đấy. Phía sau mái chóp nhọn, họ thấy nhiều tòa nhà hình khối vùi thân dưới lòng đất, nhô ra phần mái và nằm rải rác khắp sa mạc, trong quá khứ, chúng từng là khu dân cư hoặc dãy cửa hàng nằm trên con phố sầm uất đông người qua lại. Điều đặc biệt là tất cả đám phế tích này được dựng nên từ cát và sa kết tuyến. Không khó để tìm ra sa kết tuyến lẫn trong các tòa nhà kể trên, chúng sở hữu phép thuật dài lâu tới nỗi các công trình vẫn còn giữ được ít nhiều hình dáng ban đầu. Tuy vậy, bởi xây nên từ cát nên khi bị tàn phá, những công trình này không nứt vỡ như dải tường thành ngoài kia mà “rữa” ra, như thể khối kem bị nóng chảy. Và tới một lúc nào đấy, Hồi Đằng Cô Mộ sẽ tan chảy rồi biến mất hoàn toàn.
Mặc dù đang tiến hành nhiệm vụ, nhưng bốn người vẫn dành chút tò mò lẫn cảm xúc cho chốn hoang phế này. Vô Phong mở lớn mắt, cố gắng thâu hết cảnh tượng vào trí nhớ. Hắn hỏi Lục Châu:
-Chỗ này là thành phố phải không, công chúa?
-Phải. Một thành phố cát. – Lục Châu gật đầu – Ngày trước, nó tên là Hồi Đằng Cô Thành.
Nhóm người tiếp tục xuôi theo con đường cát về hướng tây nam, tuy nhiên tốc độ chậm hơn hẳn vì tinh thần của họ đang bị cuốn vào một trũng cát lớn. Ở đó có hàng chục cột trụ khổng lồ màu bạc, hầu hết chẳng còn lành lặn và cắm xiêu vẹo trong cát, xen lẫn là tàn dư của một tòa kiến trúc như đá lát bậc thềm, những lan can gãy đổ hay mái chóp nhọn tróc lở. Vô Phong bỏ kính nhìn đêm, say sưa ngắm nghía hoa văn trên thân các cột trụ. Dù bị thời gian bào mòn, các hoa văn vẫn hiện lên rõ ràng với muôn vàn dáng vẻ từ hình lục giác, hình lăng trụ, hình kim cương cho tới đường hoa văn hỗn hợp, trông chẳng khác gì bông tuyết. Nhìn chúng, Vô Phong mường tượng ra một cung điện màu bạc rộng lớn như trái tim băng đặt giữa sa mạc với những tòa tháp nằm so le nhau, có đường lan can chạm trổ tinh xảo bao quanh sân thượng, có hàng trăm bậc thềm dẫn lên cửa chính. Khi bước qua cửa, người ta sẽ choáng ngợp bởi hàng cột trụ lấp lánh hoa văn, tưởng chừng lạc vào vùng đất đầy tuyết rơi ở phương bắc xa xôi. Tên tóc đỏ buột miệng:
-Lạ thật…
Lục Châu đi cạnh Vô Phong, nghe hắn nói vậy thì hỏi:
-Lạ cái gì?
-Tôi cảm giác nơi này không thuộc về sa mạc. Nó khác quá…
Công chúa mỉm cười, sau nói:
-Ở thời phi cơ giới, có một công chúa ở Băng Thổ bị ép phải lấy hoàng đế ở Kim Ngân. Từ khi về Kim Ngân, nàng công chúa không bao giờ vui. Để chiều lòng cô ấy, vị hoàng đế đã cho xây dựng Hồi Đằng Cô Thành với kiến trúc giống như ở Băng Thổ. Nhưng truyền thuyết nói vị công chúa không bao giờ quên đất Băng Thổ. Lúc chết, linh hồn cô ấy nhập với sa mạc và khi ba mặt trăng cùng xuất hiện, sa mạc Hồi Đằng sẽ biến thành băng tuyết.
-Vậy truyền thuyết là sự thật? – Vô Phong ngạc nhiên.
-Không, chỉ là truyền thuyết thôi. – Lục Châu lắc đầu – Giống truyện cổ tích mà chúng ta vẫn thường nghe hồi bé vậy.
Vừa lúc ấy, gió mang cát rải xuống vùng trung tâm lòng chảo. Gió luồn lách qua những cột trụ, những ngôi nhà tan chảy, lang thang khắp khu di tích rồi cất tiếng lòng của nó lên trời đêm. Nghe tiếng gió khẩn thiết ấy, tên tóc đỏ thầm mong ánh trăng xuất hiện. Khi sa mạc bừng sáng, Hồi Đằng Cô Mộ hẳn sẽ lộng lẫy hơn bao giờ hết, dù rằng nó chỉ còn là đống hoang tàn. Nhưng bọng mây khổng lồ trên bầu trời năm mươi năm qua chưa hề thủng, khói đạn khói súng từ mọi nơi vẫn bay về đây và che khuất ánh sáng. Nếu quả thực linh hồn nàng công chúa kia còn tồn tại, cô ta sẽ chẳng bao giờ thấy Hồi Đằng biến thành băng tuyết thêm lần nào nữa.
Phải mất một lúc lâu, nhóm công chúa mới dứt được vùng trũng cát. Họ tiếp tục băng qua những tòa nhà trong khu di tích và xuôi về đằng tây nam. Cảnh tượng Hồi Đằng Cô Mộ khiến họ không muốn nghỉ chân dù trước đấy đã đi mười cây số. Nhưng một thông tin cảnh báo từ cô nàng A2 buộc bốn người phải dừng bước:
-Hãy tìm chỗ nấp đi, khẩn trương lên! Có một đoàn xe đang lao về phía các vị! Hình như là bọn cướp!
Lời cảnh báo vừa dứt, những ánh đèn vàng nhỏ xíu từ đằng xa xuất hiện, rọi thẳng về phía nhóm công chúa. Họ vội vàng rời khỏi con đường, giấu mình sau một cột trụ lớn chắn ngang trên cát. Lục Châu thì thào vào bộ đàm:
-Sao bây giờ mấy người mới nói?
-Xin lỗi công chúa. – A2 trả lời – Bọn chúng nấp trong khu di tích, chúng tôi không phát hiện ra.
Bốn người nhổm đầu qua cột trụ, tay lăm lăm vũ khí sẵn sàng giao chiến. Họ thấy ánh đèn vàng lớn dần, mang theo tiếng máy móc xe cộ vang rền khuấy đảo không gian yên tĩnh. Âm thanh ấy xuất phát từ những chiếc xe phế liệu cũ nát, giống hệt đoàn xe của đám trộm cướp mà Vô Phong gặp trước lúc vào sa mạc. Nhưng đám xe này không hề truy lùng bọn công chúa mà đang đuổi theo một nhóm ba người. Phía trước ánh đèn, Vô Phong nhận ra ba người đó gồm một người đàn ông, một phụ nữ và một đứa trẻ con, dường như là gia đình. Họ nắm tay nhau mà chạy, nhưng có vẻ chẳng còn mấy hơi sức vì họ liên tục ngã trên cát, trong khi đoàn xe đang băng băng lao đến. Lục Châu khẽ thảng thốt:
-Họ bị bắt mất!
-Đừng can dự, công chúa! – Anh chàng A1 nói – Đây không phải việc của chúng ta.
Lục Châu bấu ngón tay lên thân cột trụ, chừng như muốn lao ra ngay lập tức. Không lâu sau, những chiếc xe phế liệu đã bắt kịp và lập thành vòng vây quanh gia đình nọ. Từ trên xe, một toán cướp nhảy xuống, trên mình khoác áo trùm đầu, tay lăm lăm súng ống chĩa vào ba con người tay không tấc sắt. Người đàn ông quỳ xuống mặt cát, hai tay giơ lên cao, điệu bộ thống khổ vô cùng. Dù cách khá xa nhưng nhóm công chúa vẫn nghe thấy giọng ông ta rõ mồn một:
-Xin các người! Chúng tôi không có một xu nào cả! Hãy để chúng tôi đi!
Bên cạnh ông ta, người phụ nữ ôm chặt đứa con gái vào lòng, ánh mắt run rẩy cầu mong chút nhân từ. Nhưng “nhân từ” không có trong từ điển sống của bọn đạo tặc Kim Ngân. Mặc cho người đàn ông van nài, người phụ nữ gào thét và tiếng khóc từ đứa trẻ con, chúng lục soát từng người một, giằng giật mớ tay nải của họ hòng tìm kiếm đồ vật giá trị. Bất quá người đàn ông không nói dối, gia đình ông ta chẳng có gì ngoài vật dụng cá nhân với chút lương thực đi đường. Bọn cướp làu bàu:
-Mẹ kiếp, ngồi đây cả tối mà chẳng được tích sự gì cả!
-Tìm kỹ lại xem, biết đâu chúng nó giấu cái gì đấy?!
-Kỹ lắm rồi, mày không thấy à?
Và rồi một gã đề nghị:
-Con bé này thì sao? Bán nó cho nhà thổ chứ?
-Bé quá! Không bán được! Nó lớn thêm hai, ba tuổi nữa thì may ra… – Một gã lắc đầu.
-Bán được! – Một gã khác nói – Nhà thổ ở địa bàn của Hiệp Dung sẽ mua. Tao biết chỗ!
Lũ cướp gật gù, coi như đã bàn bạc xong. Chúng lôi đứa nhỏ ra khỏi vòng tay người mẹ khốn khổ, người đàn bà ấy cùng cha con bé bèn lao tới ôm chặt chân bọn cướp, họ gào lên:
-Xin các người! Đừng bắt con tôi đi! Tôi xin các người!
-Xin các ông thả con tôi! Tôi xin các ông!
Chứng kiến sự việc từ đầu chí cuối, Lục Châu không thể chịu được cảnh đứa bé gái sắp trở thành một món hàng trao đổi. Cô gái niệm phép, lòng bàn tay xập xòe ánh lửa điện. Nhưng trước khi nàng kịp rời khỏi chỗ ẩn nấp thì Chiến Tử đã ấn vai nàng xuống. Bàn tay gã như gọng kìm thép khiến Lục Châu nhăn mặt đau đớn:
-Chiến Tử, anh… tại sao?
-Đây không phải việc của chúng ta. – Chiến Tử đáp.
-Chúng đang bắt cóc con bé! Chúng sắp rao bán nó!
Giọng điệu công chúa đã mất bình tĩnh, nhưng Chiến Tử đáp một cách thờ ơ:
-Vậy chỉ trách số nó không may mắn.
Mặc cho Lục Châu vùng vẫy, Chiến Tử nhất quyết không buông, bàn tay gã siết lại, mạnh đến mức công chúa không thể cử động nổi. Phía bên kia, trong một nỗ lực giành giật đứa con bất thành, bà mẹ khốn khổ lên cơn rồ dại cắn vào tay một tên cướp. Gã này đỏ mặt tía tai la oai oái:
-Bỏ ra! Mẹ kiếp! Đồ chó dại! Bỏ ra!
Gã đẩy người phụ nữ ra rồi giương súng bóp cò. Ánh chớp lửa tàn khốc cùng tiếng nổ liên hồi vang dội khắp Hồi Đằng Cô Mộ, tưởng chừng cách xa một cây số cũng có thể nghe thấy. Khi khẩu súng không thể khạc đạn nữa, thân thể người đàn bà đổ ập xuống nền cát. Người đàn ông – người chồng – người cha chết lặng, ông ta quỳ bên cái xác mà khuôn mặt vẫn trân trân như chưa hiểu chuyện gì vừa xảy ra. Ông ta chợt quên sạch ngôn ngữ loài người, cổ họng ú ớ những tiếng như chó tru. Nhưng nỗi đau của người đàn ông không kéo dài lâu bởi loạt đạn thứ hai ập đến ngay sau đó. Ông ta gục xuống cạnh vợ mình, đôi mắt mở lớn hướng thẳng về nơi nhóm công chúa đang ẩn nấp. Tấn thảm kịch còn tiếp diễn khi đứa bé bắt đầu gào khóc. Tiếng khóc đứt đoạn rồi câm bặt trước hàng tá cú đấm cú đá từ bọn cướp, chẳng cần nhìn tận mắt cũng có thể hình dung ra cảnh tượng những đôi tay to bè thô ráp dộng xuống gương mặt ngây thơ non nớt. Mỗi lần tiếng đấm đá ấy dội đến, công chúa lại rùng mình, đôi vai run bần bật. Nàng tựa mặt vào thân cột trụ và khóc trong sự bất lực.
-Đánh vừa thôi! Nó hỏng mặt thì sao mà bán được? Đi thôi! Tới chỗ của Hiệp Dung!
Lũ cướp trèo lên xe rồi chạy khỏi Hồi Đằng Cô Mộ, tìm nơi ngã giá con bé với nhà thổ. Một chút tiền bạc sẽ làm bọn cướp hứng khởi trước khi bắt đầu một cuộc cướp bóc mới. Còn phía sau cột trụ, nhóm công chúa gần như không thở nổi. Nếu chẳng phải gia đình nọ, khéo chừng chính họ đã lọt vào ổ phục kích của lũ cướp. Nhưng họ không tự nhủ may mắn, càng không muốn bày tỏ lời cảm ơn tới người chết. Họ cũng không ra chôn hai xác chết bởi gió và cát sẽ làm việc đó. Chiến Tử là người đầu tiên đứng dậy, gã nói:
-Đi thôi, công chúa. Chúng ta phải ra khỏi lòng chảo trước bình minh.
Nghe lời gã hộ vệ, Lục Châu cũng nhanh chóng rời đi. Nhưng kể từ lúc ấy, đầu óc nàng bị ám ảnh và mỗi khi nhớ lại những tiếng đấm đá giã xuống gương mặt đứa trẻ con, nàng lại khóc. Nhóm người không ai nói gì, chỉ lầm lũi đi, cố gắng thoát khỏi Hồi Đằng Cô Mộ càng nhanh càng tốt. Chỉ riêng Vô Phong ngoái lại ngắm nhìn khu di tích. Tên tóc đỏ từng mong ánh trăng xuất hiện, nhưng giờ thì không. Hắn muốn nỗi bi kịch bị chôn chặt trong bóng tối, mãi mãi không xuất hiện và chẳng được ai nhớ đến.
Gió vẫn cất tiếng hát buồn bã trong mưa cát. Hôm nay đã có người chết, nhưng không có lời tiếc thương mà chỉ thêm tiếng nguyền rủa.
Chừng nào Kim Ngân còn bi kịch, Hồi Đằng sẽ chẳng bao giờ thấy ánh trăng.
(*) bí kỹ “khuếch đại” của Tàn Thi, xem lại Quyển 2 – Chương 53
(**) Vô Phong hay sử dụng chiếc bánh này mỗi khi găp nguy hiểm.