Khi Charlie đến Học viện sáng hôm sau, nó để ý thấy có tiếng huyên náo, đầy hào hứng trong hành làng chính. Bọn trẻ thật khó mà giữ được im lặng, chúng cứ huých khuỷu tay vào nhau, và chỉ trỏ cái bàn dài được kê dựa vô một trong những bức tường ốp ván. Trên bàn chất đầy đèn lồng bằng thủy tinh.
“Tối nay có trò chơi trong khu vườn hoang đó,” Fidelio loan báo với Charlie. Chúng đã vô phòng để áo khoác chật ních lũ trẻ đang đấu láo.
“Có chuyện gì vậy?” Charlie hỏi, nghĩ đến cô nữ sinh không bao giờ trở ra. “Em không biết cách chơi.”
“Đây không hẳn là trò chơi,” Fidelio nói. “Mà giống một cuộc đi săn hơn. Có một chiếc huy chương được giấu ở trung tâm của khu vườn hoang. Người thắng cuộc phải tìm ra chiếc huy chương đó, và phải ra khỏi khu vườn hoang trước khi hết một tiếng đồng hồ. Mỗi khoa sẽ tuần tự tìm kiếm. Tối nay là khoa kịch, ngày mai là khoa hội họa và thứ tư là đến tụi mình. Không dễ đâu. Năm ngoái chẳng ai tìm được huy chương, còn năm kia thì có người tìm thấy, nhưng phải mất ba giờ đồng hồ mới ra được, thế nên không tính.”
“Có đáng phải làm vậy không?” Charlie cau mày. “Chỉ là cái huy chương thôi mà.”
“Người thắng cuộc sẽ không bị cấm túc trong một năm – trừ phi họ làm điều gì đó hết sức tệ hại. Họ còn được tặng ngày nghỉ, và được phát miễn phí các món như nhạc cụ mới, hộp màu vẽ, hay quần áo hóa trang. Ngoài ra việc đó sẽ khiến người ta cảm thấy hãnh diện.”
“Ô,” Charlie có cảm giác chơi vơi. Nó tự nhủ mình thật ngớ ngẩn. Sẽ có một trăm đứa trẻ trong khu đổ nát. Làm sao mà lạc được nào? Tuy nhiên, đã có người biếm mất trong đó. Và ai đó có thể biến thành một con thú man rợ và đi vô đó để tìm mồi.
“Đừng có u ám như thế chứ, Charlie,” Fidelio trấn an. “Tối nay tụi mình sẽ theo dõi từ phòng triễn lãm của khoa hội họa. Phòng đó nhìn ra vườn. Em sẽ thích cho coi, anh bảo đảm với em đó.”
Sau bữa ăn nhẹ vào buổi tối, lũ trẻ của khoa kịch xếp hàng vô hành lang và đi lấy đèn lồng. Phòng triển lãm nhìn ra vườn dần dần đầy ắp các khan giả, theo dõi từng đứa, từng đứa một, bọ trẻ áo chùng tím túa ra vườn. Charlie hài lòng khi thấy Olivia đã quyết định mang đôi giày hữu dụng – loại giày có thể chạy nếu bị ai đó rượt theo.
Một hàng đèn lồng lập lòe trườn qua bãi cỏ như một con rắn dài lấp lánh. Và rồi, từ từ, cái đầu rắn bắt đầu biến mất khi lũ trẻ bị các bức tường đen tối của khu đổ nát nuốt chửng.
“Bây giờ thì sao?” Charlie nín thở hỏi.
“Tụi mình đợi thôi,” Fidelio đáp.
Chúng không phải đợi lâu. Từng đám con nít bắt đầu cuống cuồng chạy ra khỏi khu vườn hoang, gần như ngay khi mới bước chân vô. Tụi nó sợ bóng tối hoặc sợ bị lạc đường. Đứa nào chạy ra tới hành lang là tên bị gạch khỏi danh sách ngay. Những chiếc đèn lồng được run run hoàn trả lại, và đám trẻ ngây ngô ấy mau chóng về phòng ngủ.
Olivia là một trong những đứa trở ra sau cùng. Fidelio và Charlie đang chờ trên cầu thang dẫn lên phòng ngủ chung của nó.
“Tớ không thích khung cảnh ở ngoài đó tối nay,” Olivia tía lia liền. “Không biết có cái gì đằng sau mấy bức tường cứ khiến tớ nổi da gà. Tớ cứ nhìn vô cái bóng đen đó – nó cứ thoắt ẩn rồi thoắt hiện.”
“Loại bóng đen gì vậy?” Fidelio hỏi.
“Một con thú,” Olivia nói. “Có lẽ là một con chó…em cũng không biết nữa. Em không đến được trung tâm, không ai đến được đó.”
“Mình mừng là bồ đã ra được,” Charlie nói, liếc nhìn đôi giày hữu dụng của Olivia.
“Tớ bám sát Bindi,” Olivia kể tiếp. “Đi kế chị ấy tớ cảm thấy an toàn, vì chị ấy có phép thuật. Manfred đã nhìn tớ một cái thật ghê sợ lúc hắn giao lồng đèn cho mọi người. Tớ nghĩ là hắn đã biết chuyện rồi.”
“Hắn không biết bồ đâu, Olivia” Charlie nói.
Tối hôm sau, đến lượt khoa hội họa chơi trò hủy diệt. Fidelio và Charlie có thêm Olivia cùng đi vô phòng triển lãm. Charlie cảm thấy an tâm khi biết Emma Tolly sẽ không có ở trong đám săn lùng huy chương. Nó tự hỏi không biết Emma có được ở cùng với cô Ingliedew hay không. Nếu Ông cậu nó mà ra tay trong việc này thì may ra. Ông cậu Paton là người rất uy lực, theo cách riêng của Ông cậu.
Không có gì kịch tính trong lượt chơi thứ hai này. Không ai tìm thấy huy chương và tất cả mọi người đều trở ra an toàn.