Chương 3
Thành phố Đồng nằm bên bờ một nhánh sông Trường Giang, núi non trùng điệp bao quanh, giao thông bất tiện. Trong quá khứ, đây là khu vực tương đối lạc hậu. Mãi tới năm 2000, khi có đường cao tốc, sự phát triển của thành phố Đồng giống như ngồi trên chuyến tàu cao tốc, một khi bùng phát không thể kìm hãm. Bây giờ, thành phố nghiễm nhiên trở thành nền kinh tế trọng điểm của tỉnh. Cũng giống như những thành phố mới nổi khác, người dân bản xứ muốn ra bên ngoài, đi tìm kiếm cơ hội ở những thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu; trong khi người ở các vùng xung quanh lại muốn đến thành phố Đồng lập nghiệp.
Từ hồi vào đại học, mỗi lần về nhà, Giản Dao đều có cảm giác quê nhà mỗi năm một khác. Những tòa kiến trúc cũ kỹ lần lượt biến mất, thay vào đó là những tòa nhà thương mại mới xây dựng, đường phố ngày càng đông đúc. Tất nhiên cũng có những thứ không thay đổi, ví dụ dòng sông uốn lượn quanh thành phố, ví dụ đài tưởng niệm anh hùng nhân dân ở trung tâm thành phố, ví dụ ngôi biệt thự tĩnh mịch tựa hồ không bị ảnh hưởng bởi bụi trần và thời gian nằm ngay trước mắt cô.
Đúng tám giờ sáng, Giản Dao có mặt ở ngôi biệt thự như đã hẹn. Vừa gõ cửa, cô phát hiện cửa đã mở sẵn. Bên trong vô cùng vắng lặng, chỉ có ánh nắng chiếu sáng tấm thảm màu nâu trên sàn nhà. Trong nhà hình như không có người.
Hôm qua Phó Tử Ngộ gọi điện cho cô, nói anh ta sẽ nhanh chóng quay về thành phố B. Anh ta dặn cô trong thời gian làm việc ở ngôi biệt thự, ngoài căn phòng khóa trái cửa, cô có thể tùy tiện sử dụng tầng một. Xem ra, đây chính là sự khởi đầu của việc “tùy tiện” mà Phó Tử Ngộ nhắc tới.
Phòng khách vẫn bài trí như lần đầu tiên Giản Dao đến đây. Điểm khác biệt duy nhất là gần cửa sổ xuất hiện một chiếc bàn vuông sơn màu trắng và một cái ghế. Trên bàn đặt laptop và một tập tài liệu cũ kỹ ố vàng. Theo nội dung hợp đồng, khối lượng công việc của Giản Dao tương đối lớn nên cô sẽ dùng máy tính dịch tài liệu.
Giản Dao ngồi xuống trước bàn làm việc. Ngoài cửa sổ, dải núi phía xa xa nhấp nhô, được phủ lớp tuyết mỏng như dải lụa trắng. Rừng thông ở nơi gần hơn cũng một màu trắng xóa, ánh nắng chiếu xuyên qua kẽ lá nhọn hoắt. Giản Dao lại quan sát bàn làm việc, mặt bàn gọn gàng sạch sẽ như mới. Không tồi, hoàn cảnh làm việc tương đối thoải mái. Khi mở laptop, Giản Dao phát hiện có một file TXT, tiêu đề là địa chỉ email, nội dung trống không.
Giản Dao lại đứng dậy, đi dạo một vòng quanh ngôi nhà.
Bên cạnh phòng khách là phòng ăn. Giản Dao ngửi thấy tàn dư của mùi khói bếp. Cô đoán, bình thường Bạc tiên sinh chắc cũng nấu nướng ở nhà. Cô bỏ hoa quả cô mang đến vào tủ lạnh. Tủ lạnh gần như trống không, chỉ có nửa bát canh cá.
Bên cạnh phòng ăn có một cánh cửa thông ra hành lang. Giản Dao đi về phía trước vài bước, bất ngờ nhìn thấy một cần câu cá dựng ở góc tường.
Thành phố nhỏ này lắm sông ngòi, nhiều cá, các gia đình sắm cần câu cá là chuyện hoàn toàn bình thường. Điều Giản Dao cảm thấy bất ngờ, cần câu cá trước mặt cô chính là “Daiwa Hồng Hổ”, một trong những loại cần câu đắt nhất và tốt nhất trên thế giới, còn là loại số lượng có hạn, là “vũ khí thần” trong lòng nhiều người mê câu cá.
Giản Dao dừng chân thưởng thức một lúc, cô rút máy di động chụp hai tấm ảnh, mới tiếp tục đi về phía trước.
Gần đến cuối hành lang, cô bất giác dừng lại. Trước mặt cô là không gian nhỏ, tấm rèm rất dày che kín cửa sổ ở hai bên, giống như bịt kín mít, không một chút ánh sáng lọt vào. Không gian âm u tối mờ mờ, chẳng có thứ gì ngoài hai cánh cửa khép chặt.
Giản Dao đi vào không gian tối, đến trước một cánh cửa. Cô nhẹ nhàng đẩy cửa nhưng cánh cửa đã bị khóa chặt.
Giản Dao lại quay về phòng khách. Cô tự pha một tách cà phê, bắt đầu cắm cúi làm việc.
Buổi sáng nhanh chóng trôi qua, Giản Dao ngồi yên một chỗ, tựa hồ không hề nhúc nhích.
Lúc cô tập trung dịch tài liệu, Phó Tử Ngộ đang ngồi trong một phòng đóng kín trên tầng hai, trước mặt là màn hình camera giám sát cỡ lớn.
Anh ta chăm chú quan sát dáng vẻ yên tĩnh của Giản Dao trên màn hình, sau đó quay đầu nói với Bạc Cận Ngôn: “Cô gái này có vẻ an phận và thật thà. Tôi cũng thấy yên tâm, ngày mai tôi sẽ quay về thành phố B.”
Bạc Cận Ngôn ngồi ở ghế sofa đơn, hai chân anh vắt chéo gác lên chiếc ghế nhỏ. Tay áo sơ mi của anh xắn lên một nửa, trong tay anh là một đĩa cá bạc vừa nướng xong. Anh từ tốn bỏ từng con vào miệng. Nghe câu nói của bạn, Bạc Cận Ngôn ngẩng đầu liếc qua màn hình, giọng nói trầm thấp ấm áp của anh không một chút xao động: “Vô vị, giống như khúc gỗ.”
Phó Tử Ngộ phì cười: “Cô bé đó là do cậu đích thân chọn đấy.” Vừa ngoảnh đầu, anh ta phát hiện đĩa cá trong tay Bạc Cận Ngôn vừa nãy vẫn còn đầy, giờ đã trống không.
Im lặng vài giây, anh ta không nhịn được lầu bầu: “Nếu không ăn cá, cậu sẽ chết hay sao?”
Bạc Cận Ngôn liếm sạch vụn cá còn sót lại trên đầu ngón tay: “Không chết. Nhưng nếu không thỏa mãn nhu cầu, tôi sẽ rất bứt rứt khó chịu.”
***
Sau hôm ăn cơm với Giản Dao, Lý Huân Nhiên vô cùng bận rộn. Ngoài giải quyết công việc của cục, anh còn bận điều tra vụ thanh thiếu niên mất tích.
Nhưng vụ án này gặp không ít khó khăn. Thanh thiếu niên mất tích đến từ các huyện và khu vực khác nhau, thời gian mất tích cũng khác biệt. Lý Huân Nhiên không tìm ra chứng cứ trực tiếp, chứng minh sự tồn tại của kẻ bắt cóc. Tuy cục trưởng rất coi trọng phát hiện của anh nhưng vì không có chứng cứ, cảnh sát không thể chính thức điều tra vụ án, cũng không thể bỏ nhiều nhân lực.
Hôm nay hết giờ làm việc, Lý Huân Nhiên mời một cảnh sát hình sự lâu năm trong nghề đi ăn cơm.
Bây giờ là giữa mùa đông, thời tiết giá lạnh, hai người ngồi trong quán ăn nhỏ, trước mặt là nồi lẩu khói bốc nghi ngút. Ba chén rượu vào bụng, Lý Huân Nhiên bắt đầu thỉnh giáo người cảnh sát hình sự. Người cảnh sát liếc anh: “Lý Huân Nhiên, cậu đúng là tự nhiên bày ra việc để làm.”
Lý Huân Nhiên cười cười. Anh đúng là đang yên đang lành tự dưng bày ra việc, nhưng anh sẽ không bỏ cuộc.
Anh châm một điếu thuốc lá, vừa hít một hơi vừa nói: “Cháu tin vào trực giác của cháu. Những vụ án này chắc chắn do một nhóm người gây ra. Người khác không điều tra, cháu không thể bỏ cuộc. Cháu chỉ sợ một khi bỏ cuộc, sẽ lại có trẻ em bị mất tích.”
Người cảnh sát im lặng, một lúc sau mới mở miệng: “Vụ này không dễ điều tra, cả nước lớn như vậy, cậu biết bọn chúng đến từ nơi nào không? Bọn trẻ rơi vào tay chúng, sẽ bị sang tay mấy lần? Chúng lại chẳng để lại bất cứ dấu vết gì.
Cậu muốn phá án thì chỉ có hai cách. Thứ nhất là tìm đến chuyên gia thần thám. Dạng vụ án này không phải loại phàm phu tục tử như chúng ta có thể giải quyết. Có điều, chuyên gia bây giờ toàn vớ vẩn, tôi sống hơn nửa đời người cũng chưa từng gặp thần thám gì đó. Vì vậy, khả năng này gần bằng không.
Cách thứ hai là học tập Lão Giản năm đó. Đầu thập niên 90, những kẻ buôn bán trẻ em nhiều hơn bây giờ gấp mấy lần. Cậu có biết Lão Giản phá án thế nào không? Ông ấy đóng giả làm ăn mày, chầu chực ở đầu đường xó chợ, bến xe suốt hai tháng trời. Cuối cùng có một tên buôn bán trẻ em nhờ ông ấy “chuyển hàng”. Ông ấy liên tục bắt được nhiều tội phạm, lập công lớn. Đáng tiếc Lão Giản chết quá sớm, quả thảm khốc. Tuy nhiên, bây giờ dùng lại chiêu đó cũng chưa chắc có tác dụng, bởi thành phố lớn hơn, người đông hơn, tội phạm cũng thông minh hơn ngày xưa.”
Lý Huân Nhiên nghe xong cầm ly rượu lặng lẽ uống cạn. Người cảnh sát lâu năm chuyển sang đề tài khác: “Đúng rồi, người đi cùng cậu hôm trước là Giản Dao phải không? Cô bé trông không tồi, càng lớn càng xinh đẹp. Cậu đừng cà lơ phất phơ nữa, làm nghề cảnh sát hình sự, tìm người thích hợp không dễ dàng. Cậu hãy đối xử tốt với người ta, sớm kết hôn mới là hành động đúng đắn.”
“Kết hôn gì chứ? Cô ấy là em gái cháu.” Lý Huân Nhiên đáp.
***
Thời gian trôi qua rất nhanh. Mỗi buổi chiều, Giản Dao đều gửi bản dịch đã hoàn thành đến địa chỉ email trên laptop. Hộp thư của đối phương đều có tin nhắn tự động đã mở tài liệu, nhưng Bạc tiên sinh chưa từng trả lời email, cũng không hề lộ diện.
Không có tin tức có nghĩa là tin tốt lành.
Chỉ là thỉnh thoảng liếc cây cần câu cực phẩm trong ngôi biệt thự, Giản Dao lại nổi cơn thèm câu cá.
Làm việc liên tục một tuần liền, Giản Dao chọn một ngày đẹp trời nghỉ ngơi. Hôm đó là chủ nhật, ông mặt trời vừa ló dạng, cô liền gọi điện cho Lý Huân Nhiên.
Lúc nhận được điện thoại của Giản Dao, Lý Huân Nhiên đang khoác bộ đồ “cái bang” hôi mù, mặt mũi nhem nhuốc ngồi ở một xó xỉnh nào đó tại phía nam thành phố, lặng lẽ quan sát người qua đường. Khoảng thời gian này, mỗi khi rảnh rỗi, anh đều đến đây theo dõi, đã mấy ngày nhưng vẫn không có thu hoạch.
“Câu cá? Anh đang bận trực.” Lý Huân Nhiên lơ đễnh trả lời: “Vậy đi, chiều nay gặp em ở “Kho bí mật”. Anh cũng không thể nói chính xác là mấy giờ.”
Lý Huân Nhiên nói xong liền cúp điện thoại. Giản Dao cười cười, tiếp tục chuẩn bị đồ dùng câu cá. Nhớ đến “kho bí mật” Lý Huân Nhiên vừa nhắc tới, Giản Dao hơi ngẩn người.
Đó là một nơi câu cá rất tuyệt mà Giản Dao và Lý Huân Nhiên phát hiện lúc hai người còn nhỏ, là điểm một con suối nhỏ hòa vào dòng sông. Nơi đó cây cối rậm rạp, chắn gió lại nhiều ánh nắng, tụ tập rất nhiều cá. Tuy nhiên, vị trí đó hơi hẻo lánh, người bình thường không biết đến. Hồi nhỏ, Lý Huân Nhiên đặt biệt danh là “kho bí mật”.
Nguyên nhân khiến “kho bí mật” ít người lai vãng là nó nằm ở phía dưới sườn núi của ngôi biệt thự trong truyền thuyết, cách ngôi biệt thự không xa. Do ngôi biệt thự bị coi là nhà ma, nên rất ít người qua lại chỗ đó.
Bây giờ Bạc Cận Ngôn đã trở về, từ cửa sổ phòng khách nhà anh có thể nhìn thấy rõ “kho bí mật”.
“Kho bí mật” đã không còn là nơi bí mật, nhưng vẫn là ký ức đẹp đẽ của Giản Dao.
Sau bữa trưa, Giản Dao liền xuất phát. Bây giờ là khoảnh khắc ấm áp nhất của một ngày, ánh nắng chiếu xuống lối đi nhỏ yên tĩnh trong khu rừng núi. Giản Dao đi qua ngôi biệt thự, lại đi xuyên qua con đường nhỏ hai bên phủ đầy cây cối. Tầm mắt bắt đầu mở rộng dần, giữa những phiến nham thạch màu nâu đen xuất hiện dòng nước chảy đến tận con sông phía xa xa. Đây chính là “kho bí mật”.
Xung quanh vắng lặng như tờ, Giản Dao tìm một cái cây lớn ngồi xuống. Câu cá một lúc, cô đột nhiên nhìn thấy dưới gốc cây ở phía đối diện cắm một cần câu cá, nhưng không thấy người đi câu.
Đúng lúc này, điện thoại của cô đổ chuông. Là Lý Huân Nhiên gọi tới, anh cất giọng dứt khoát: “Anh có việc nên không đi được.”
Giản Dao: “Lý Huân Nhiên, em đã đến nơi rồi.”
Lý Huân Nhiên mỉm cười: “Thế thì em tự chơi đi, “kho bí mật” thuộc về em. Em hãy chú ý an toàn, có việc gì thì gọi điện cho anh. Anh cúp máy đây.”
Giản Dao thở dài: “Chào anh.”
Sau khi cúp điện thoại, cô lại ngồi một lúc rồi đứng dậy đi xem cần câu cá không người điều khiển.
Giản Dao hơi bất ngờ khi thấy đó là cây cần DAIWA Hồng Hổ nổi tiếng.
Giản Dao ngẩng đầu ngó nghiêng, nhưng xung quanh vô cùng tĩnh mịch, không một bóng người.
Cô quay người vừa định bỏ đi, liền nghe thấy quả chuông trên cần câu phát tiếng kêu khẽ mà dồn dập, báo hiệu cá đã cắn câu.
Giản Dao kéo cần, đem con cá chép dài gần một thước bỏ vào xô nước ở bên cạnh. Nhìn cần câu trống không, cô ngẫm nghĩ rồi lại cắm xuống đất, tìm hộp đựng mồi lắp vào lưỡi câu rồi thả xuống nước như cũ. (Một thước bằng 30cm)
Có lẽ do uy lực phi phàm của cây cần DAIWA Hồng Hổ, cũng có lẽ do thời tiết ấm áp hiếm thấy, lũ cá hoạt động tích cực. Giản Dao còn chưa quay về chỗ của mình, cây cần kia lại có cá cắn câu. Chỉ nửa tiếng đồng hồ, cô đã câu được sáu con cá lớn giúp chủ nhân của cây cần.
Nhưng Bạc tiên sinh vẫn biệt tăm biệt tích.
Giản Dao đoán anh có việc gấp phải rời đi. Tuy nhiên cũng không thể tùy tiện cắm cần câu trị giá mấy vạn tệ bên bờ suối, may mà cô tình cờ có mặt ở đây.
Sau đó, Giản Dao quyết định xách cần câu sang bên này. Cô còn tự động thay mồi nguyên thủy và đơn giản nhất của chủ nhân cây cần là con giun đất thành mồi độc mà cô đặc biệt chế biến. Cần câu đẳng cấp cộng thêm mồi câu đẳng cấp quả nhiên vô địch. Đến lúc trời gần tối, Giản Dao đã câu đầy một xô cá, câu nữa cũng không có chỗ chứa.
Cô ì ạch xách xô cá về ngôi biệt thự, để cần câu vào chỗ cũ. Giản Dao ngẫm nghĩ rồi gửi email cho Bạc Cận Ngôn: “Bạc tiên sinh, tôi tình cờ nhìn thấy cần câu của anh ở bên bờ suối, cũng không rõ anh có quay về hay không nên tôi mạo muội cầm về nhà cho anh. Ngoài ra còn có cá tôi câu được. Nếu có gì không thỏa đáng, mong anh thông cảm.”
Xong xuôi, Giản Dao cầm mấy con cá về nhà. Buổi tối, điện thoại di động của cô báo hiệu email mới. Cô mở ra xem, Bạc Cận Ngôn lần đầu tiên trả lời email: “Cá rất ngon, cám ơn.”
Ngày hôm sau đi ngôi biệt thự, trong nhà vẫn không có người. Giản Dao chẳng để bụng chuyện ngày hôm qua, tập trung vào công việc dịch thuật.
Lúc nghỉ ngơi, cô đi rửa hoa quả. Vừa vào nhà bếp, cô liền ngửi thấy mùi thơm của cá. Giản Dao mở tủ lạnh, lập tức ngẩn người.
Tủ lạnh hôm qua vẫn còn trống không, hôm nay đã chất đầy các món cá. Nào là cá sốt, cá hấp, đầu cá om hạt tiêu, thịt cá cắt lát, canh cá…Tất cả đều là đồ ăn không hết.
Giản Dao đóng tủ lạnh. Cô đột nhiên thấy buồn cười. Một người nửa đêm nửa hôm bày nhiều món như vậy, Bạc tiên sinh đó chắc chắn rất thích ăn cá.
Vài ngày sau, lại gặp thời tiết tốt, Giản Dao rủ em gái cùng đi “kho bí mật”. Lý Huân Nhiên vẫn không thấy bóng dáng, Giản Dao cũng không làm phiền anh.
Đến bờ suối, Giản Dao lại nhìn thấy cây cần DAIWA Hồng Hổ quen thuộc. Nhận ra nhãn hiệu này, Giản Huyên trố mắt kinh ngạc: “Cần câu của ai mà vô tư thế?”
Giản Dao cũng hơi ngạc nhiên. Sao người đó lại vất cây cần ở đây?
Lúc này, Giản Huyên nhấc cần câu lên khỏi mặt nước: “Chị, không có mồi câu, bị cá ăn hết rồi sao? Lạ thật đấy, cá đâu rồi? Cá khó thoát khỏi loại lưỡi câu này mới đúng.”
Giản Dao vụt qua một ý nghĩ. Cô cúi đầu tìm kiếm, phát hiện trên mặt đất không có hộp mồi câu, chỉ có mỗi cây cần cắm ở nơi này.
Giản Huyên cũng nhận ra điều đó, cô cất giọng nghi hoặc: “Chủ nhân của cần câu này là Khương Thái công, định chờ cá tự cắn câu hay sao?”
Giản Dao đã hiểu ra vấn đề, mỉm cười trả lời: “Người đó không phải đợi cá.”
Mà là đợi cô.
Chương 4
Xét về ngoại hình, Giản Dao là cô gái vô cùng dịu dàng thanh tú. Cô có mái tóc dài ngang vai, thân hình mảnh mai, làn da trắng ngần, ngũ quan sáng sủa. Đặc biệt là đôi mắt đen long lanh như có ánh nước, càng khiến khí chất của cô thêm phần xuất chúng.
Phong cách trang điểm ăn mặc của Giản Dao cũng rất trang nhã và tinh tế, không khoa trương cũng không qua loa đại khái. Cô rất biết cách phối đồ, bộ quần áo nhãn hiệu bình thường mặc lên người cô trở nên mới mẻ và nổi bật. Giọng nói của cô rất nhẹ nhàng mềm mại, nhưng tuyệt đối không dài dòng. Cô có nụ cười thoải mái hồn nhiên, trong khi cử chỉ động tác lại toát ra vẻ duyên dáng nữ tính.
Khí chất của Giản Dao được di truyền từ người mẹ có tính cách hiền thục và dịu dàng. Nhưng trong cốt tủy của cô vẫn có sự phóng khoáng của người bố. Mặc dù bố cô chỉ ở bên cô sáu năm, nhưng Giản Dao vẫn có ấn tượng sâu sắc về những câu ông từng nói. Ví dụ “Đại trượng phu hành sự đầu đội trời chân đạp đất, lòng không hổ thẹn”, “Đời người nên tận hưởng niềm vui”, “Sự giao thiệp giữa những người quân tử nhạt như nước”…
Vì vậy dưới ánh chiều tà của ngày hôm nay, sau khi kết thúc buổi câu cá, Giản Dao bỏ lại cây “DAIWA Hồng Hổ” và mười mấy con cá bên bờ suối. Lúc cô gọi em gái ra về, Giản Huyên hết sức nghi hoặc: “Chị để hết ở đây sao?”
“Ừ. Anh ta sẽ tự mình mang về.”
Về đến cửa nhà, Giản Huyên đột nhiên nhớ ra một vấn đề quan trọng: “Chị, chị câu giúp anh ta nhiều cá như vậy, anh ta không có biểu hiện nào khác? Chỉ gửi email nói một câu “cám ơn” thôi sao?” Bình thường Giản Huyên không phải là người hay so đo, cô chỉ sợ chị gái có tính cách rộng rãi phóng khoáng nên người khác thừa dịp lợi dụng.
Giản Dao chưa từng nghĩ đến điều đó. Hành động của Bạc Cận Ngôn ngày hôm nay ngược lại khiến cô cảm thấy, anh dường như là một người thẳng tính đáng yêu. Giản Dao mỉm cười với em gái: “Em không thấy thú vị sao?”
Giản Huyên bĩu môi: “Em chỉ thấy chị đối xử với tên yêu quái đó quá tốt. Đúng là yêu quái cũng có mùa xuân.”
Giản Dao phì cười: “Nói linh tinh.”
Giản Dao không ngờ, ba ngày sau, cô nhận được “biểu hiện” của Bạc Cận Ngôn.
Cô vừa về nhà liền nhìn thấy trên bàn đặt một chiếc hộp lớn, Giản Huyên đứng cạnh ngó nghiêng, xem ra em gái đã nghiên cứu hồi lâu.
“Người gửi là Phó Tử Ngộ ở thành phố B.” Giản Huyên hiếu kỳ hỏi: “Anh ta chẳng phải là bạn thân của tên yêu quái kia? Tại sao anh ta lại gửi đồ cho chị.”
Giản Dao cũng không đoán ra, Phó Tử Ngộ chưa từng nhắc với cô chuyện gửi đồ. Cô lập tức tháo hộp quà, vô cùng bất ngờ khi thấy bên trong là một cần câu “DAIWA Hồng Hổ” mới 100%, giống hệt cần câu của Bạc Cận Ngôn.
Giản Dao lập tức gọi điện thoại cho Phó Tử Ngộ.
Tại thành phố B, Phó Tử Ngộ đang mặc áo blouse trắng, ngồi trong văn phòng xem hồ sơ bệnh án. Giọng nói của anh ta vẫn thoải mái ôn hòa như thường lệ: “Giản Dao, em cứ nhận đi, là Cận Ngôn nhờ tôi mua tặng em, coi như cám ơn cá của em. Em cũng biết cậu ấy rất thích ăn cá, chứ không có ý gì khác.”
Giản Dao đương nhiên không chịu: “Món quà này quá quý giá, em không thể nhận.”
Phó Tử Ngộ mỉm cười: “Cậu ấy đã có một cần câu, tôi lại không câu cá. Em trả lại cho chúng tôi, cần câu đó sẽ lãng phí đấy.”
Giản Dao vẫn không đồng ý: “Phó tiên sinh, em chỉ tiện thể câu cá hộ anh ấy…”
“Đây là ý của Cận Ngôn, nếu em muốn trả thì hãy trả cho cậu ấy, tôi không biết đâu.” Phó Tử Ngộ cắt ngang lời Giản Dao: “Nhưng với tính cách của cậu ấy, cậu ấy sẽ vất bỏ đồ không dùng đến. Có lẽ ngày hôm sau em sẽ phát hiện cần câu Hồng Hổ đáng thương nằm trong thùng rác.”
Cuối cùng Giản Dao hết cách, đành bày tỏ ý kiến: cô có thể chấp nhận, nhưng cô sẽ không nhận thù lao phiên dịch. Đó cũng là một khoản tiền lớn. Thấy thái độ của cô kiên quyết, Phó Tử Ngộ đành để mặc cô.
Cúp điện thoại, Phó Tử Ngộ nhớ lại cuộc điện thoại với Bạc Cận Ngôn hai ngày trước. Anh ta không nói dối, mua cần câu Hồng Hổ là quyết định của Bạc Cận Ngôn. Tuy nhiên, ý kiến tặng quà là do anh ta đề xuất.
Hôm đó, Phó Tử Ngộ gọi điện cho Bạc Cận Ngôn hỏi thăm tình hình gần đây, thuận miệng hỏi: “Cậu đã ăn hết số cá mua lần trước chưa? Tôi sẽ đặt hàng cho cậu?” Anh ta nghĩ gần đây thời tiết giá lạnh, thành phố nhỏ khó mua cá tươi.
Ai ngờ Bạc Cận Ngôn bình thản trả lời: “Tôi có rất nhiều cá rồi.”
“Ở đâu ra? Cậu tự đi mua à?” Không thể là cá câu được, Phó Tử Ngộ hiểu rõ kỹ thuật câu cá của Bạc Cận Ngôn. Hơn nữa anh không có lòng kiên nhẫn, thường cắm cần câu ở bờ sông bờ suối rồi bỏ đi chỗ khác.
Bạc Cận Ngôn trả lời rất tự nhiên: “Giản Dao câu cho tôi.”
Phó Tử Ngộ ngạc nhiên: “Tại sao cô ấy giúp cậu câu cá?”
“Tôi không quan tâm đến điều đó.” Bạc Cận Ngôn đáp.
Phó Tử Ngộ hết nói nổi, quả nhiên là câu trả lời “kiểu Bạc Cận Ngôn” điển hình. Tuy nhiên, Bạc Cận Ngôn nói “rất nhiều cá” thì chắc chắn có nhiều. Phó Tử Ngộ hỏi tiếp: “Trước đó cậu còn nói người ta giống khúc gỗ…Vậy cậu định cám ơn cô ấy thế nào?”
Bạc Cận Ngôn im lặng vài giây mới trả lời: “Cậu thay tôi trả thù lao gấp đôi cho cô ấy.”
Phó Tử Ngộ vừa định nói “được”, anh ta đột nhiên nghĩ: “Bạc Cận Ngôn hiếm có dịp kết giao bạn bè. Cô bé Giản Dao có vẻ không tồi. Nếu cho cô bé đó tiền bạc thì hơi lạnh lùng. Anh ta nói: “Cậu nên tặng quà cho cô ấy.”
“Được. Việc này giao cho cậu xử lý.”
“Bạc Cận Ngôn! Tôi đâu phải mẹ cậu!” Phó Tử Ngộ gầm lên: “Tôi chẳng hiểu gì về cô ấy, làm sao biết tặng thứ gì? Cậu tự nghĩ đi!”
Bạc Cận Ngôn nghĩ ngợi vài giây. Sau đó, anh mỉm cười nói với Phó Tử Ngộ: “Cậu đi mua cho cô ấy một cần câu giống của tôi. Như vậy tôi khỏi cần mỗi buổi sáng đi cắm cần bên bờ suối, buổi tối lại phải ra lấy về.”
Ngày thứ hai nhận được món quà, Giản Dao mang một chai rượu đến ngôi biệt thự.
Đó là rượu bố Giản Dao cất giữ lúc sinh thời. Ông là người có tính cách “ngàn vàng đi hết lại quay trở về”. Vì vậy sau khi ông qua đời, Giản Dao và mẹ không đặc biệt lưu giữ rượu của ông. Phần lớn đã bị Lý Huân Nhiên uống, trong nhà chỉ còn lại vài chai. Rượu không phải thuộc nhãn hiệu nổi tiếng, mà do một xưởng rượu lâu năm của thành phố sản xuất từ thập niên tám mươi, bây giờ ngoài thị trường không bán, cũng coi như vô giá.
(“Ngàn vàng đi hết lại quay trở về” là một câu trong bài “Tưởng Tiến Tửu” của Lý Bạch. Chỉ con người luôn có thái độ lạc quan và lòng tin dù gặp khó khăn trắc trở)
Sau khi để chai rượu ở ngôi biệt thự, Giản Dao gửi email cho Bạc Cận Ngôn: “Cá ngon nên đi kèm rượu ngon, xin vui lòng nhận lấy.”
Bạc Cận Ngôn không trả lời. Nhưng ngày hôm sau đến ngôi biệt thự, Giản Dao thấy chai rượu đặt trên tủ bếp, rượu trong chai vơi đi một chút.
Thời gian từng ngày trôi qua, sắp đến Tết âm lịch, công việc phiên dịch của Giản Dao cũng gần kết thúc.
Giản Huyên bày tỏ sự tiếc nuối: “Sắp kết thúc mà chị vẫn chưa lần nào gặp vị đó của chị?” Bây giờ Giản Huyên dùng từ”vị đó của chị” thay thế cách gọi “yêu quái”.
Nói không hiếu kỳ là nói dối, Giản Dao cũng có một chút chờ mong. Nhưng cô không ngờ, cô lại gặp Bạc Cận Ngôn vào tối ngày hôm sau khi Giản Huyên hỏi câu đó.
Ngày hôm đó thời tiết rất đẹp, nhiệt độ tăng cao. Giản Dao mặc áo khoác cotton mỏng ra ngoài. Ngôi biệt thự vẫn tĩnh mịch như thường lệ.
Bởi vì công việc bước vào giai đoạn cuối cùng nên Giản Dao muốn hoàn thành sớm. Cô dịch một mạch cho đến khi trời chạng vạng tối. Lúc cô thu dọn đồ, bên ngoài cửa sổ nổi trận gió lớn, sấm chớp đì đùng, mưa rơi lộp độp.
Không thể đi đường núi trong thời tiết tệ hại như thế này, Giản Dao đành ngồi ở ghế sofa chờ đợi. Cô gọi điện về nhà báo tin, dặn người nhà không cần đi đón.
Giản Dao ở lại ngôi biệt thự cho đến khi trời tối hẳn.
Lúc này trong nhà bật đèn sáng trưng, khiến đồ gia dụng cổ điển đẹp đẽ càng trở nên bóng loáng như gương. Bên ngoài mưa tuôn xối xả, làm ngôi nhà rộng lớn càng trống trải lạnh lẽo.
Nguồn điện của thành phố nhỏ không ổn định. Giản Dao từng nhiều lần trải qua tình huống bị mất điện trong đêm mưa bão. Cô nghĩ thầm: “xin đừng mất điện.”
Ý nghĩ vừa vụt qua đầu óc, Giản Dao chợt nghe thấy tiếng dòng điện “xoẹt xoẹt” nhè nhẹ. Ngay sau đó, đèn điện vụt tắt, trước mắt Giản Dao tối đen.
Giản Dao ngồi yên mấy giây, cô mở đèn pin trên điện thoại di động. Dưới ánh sáng mờ mờ, xung quanh một màu u ám. Bên ngoài cửa sổ đột nhiên có tia chớp lóe sáng, khiến một góc nhà tối tăm bỗng trở nên trắng toát.
Giản Dao chậm rãi đi đến đầu cầu thang lên tầng hai. Cô gọi lớn tiếng: “Bạc tiên sinh! Bạc tiên sinh!”
Không có tiếng trả lời.
Giản Dao đi lên, đến tận cùng cầu thang, cô bất giác ngẩn người. Bởi đầu cầu thang trên tầng hai xuất hiện một cánh cửa sắt đen sì âm u thâm nghiêm.
Giản Dao run run, nhưng vẫn tiến lên gõ nhẹ vào cánh cửa sắt và gọi hai câu.
Bên trong vẫn không có động tĩnh.
Trên cánh cửa sắt có một lỗ nhỏ bằng bàn tay, Giản Dao kiễng chân nhòm vào bên trong. Nhờ ánh chớp, cô nhìn thấy một hành lang dài tối mờ mờ và mấy cánh cửa phòng đóng chặt.
Giản Dao một mình ở trong ngôi biệt thự này một thời gian khá dài, nhưng đây là lần đầu tiên cô cảm thấy sợ hãi. Giản Dao quay người đi xuống. Ai ngờ vừa đến chiếu nghỉ cầu thang, cô liền nghe thấy tiếng bước chân không nhanh không chậm ở trên tầng hai.
Giản Dao nắm chặt tay vịn cầu thang, đứng yên một chỗ bất động.
Trong đêm tối mưa to gió lớn, tiếng bước chân của người đó thấp thoáng, như có như không. Đột nhiên một tiếng “cạch” vang lên, cánh cửa sắt mở ra, một người đàn ông cao lớn đi ra ngoài.
Xung quanh tối mờ mờ, Giản Dao không nhìn rõ diện mạo của người đàn ông đó, nhưng dáng người anh rất cao, ít nhất một mét tám lăm. Cô có cảm giác người đàn ông cao lớn thẳng tắp nhưng không cường tráng vạm vỡ mà hơi gầy. Mặc dù trời tối nhưng Giản Dao vẫn lờ mờ nhận ra, anh mặc áo choàng tắm màu trắng. Thảo nào vừa rồi cô gọi to mà không có người trả lời.
Nhìn thấy người đàn ông, trái tim Giản Dao lập tức quay về vị trí cũ. Bởi vì đã quen với tính tình kỳ quặc của chủ nhân ngôi biệt thự nên vào thời khắc này, khi anh xuất hiện từ đằng sau cánh cửa sắt, Giản Dao cũng không cảm thấy quá bất ngờ.
Người đàn ông dừng lại ở đầu cầu thang vài giây, anh tựa hồ liếc cô một cái rồi sải bước dài, đi xuống cầu thang.
Giản Dao: “Bạc tiên sinh?”
“Ừ.” Anh đáp khẽ một tiếng, âm thanh như bật ra từ mũi.
Lúc này, Bạc Cận Ngôn đã nhanh chóng xuống gần chỗ Giản Dao. Cách mấy bậc thang, thân hình cao lớn của anh như một bức tường. Chiếu nghỉ cầu thang chật hẹp, Giản Dao vô ý thức lùi lại phía sau một bước, nhường lối cho anh. Cô cất giọng khách sáo, ẩn hiện ý cười: “Bạc tiên sinh, anh có đèn pin..”
Bạc Cận Ngôn đã đi qua người Giản Dao. Anh giống như không nhìn thấy cô, đi thẳng xuống tầng dưới mà không dừng bước.
Giản Dao vẫn còn ngây người. Cô lờ mờ thấy Bạc Cận Ngôn đi xuyên qua phòng khách, chuẩn bị vào nhà bếp. Cô nhanh chóng xuống đi xuống tầng một: “Bạc tiên sinh?”
“Không có.” Bạc Cận Ngôn không quay đầu. Tuy chỉ hai từ ngắn ngủi, nhưng Giản Dao vẫn kịp nhận ra, giọng nói anh vô cùng trầm ấm dễ nghe.
“Có cách nào sửa điện không?” Giản Dao hỏi một câu mang tính thăm dò. Mặc dù không hiểu về nguồn điện, nhưng cô biết ngôi biệt thự này nằm ở vị trí hẻo lánh, rất có khả năng được cung cấp điện độc lập. Nếu bị cháy cầu chì gì đó thì chắc có thể sửa chữa.
Lần này, Bạc Cận Ngôn dừng bước, quay người về phía Giản Dao. Anh trầm tư vài giây mới trả lời: “Xuất phát từ trạng thái mất điện, có thể suy đoán, phụ tải của mạng lưới điện khu vực gần đây quá lớn nên máy biến áp bị cháy. Muốn sửa chữa cần phải đóng công tắc nguồn điện, mở nắp máy biến áp, tìm kiếm bộ phận bị cháy, thay linh kiện mới.”
Bạc Cận Ngôn nói một lèo rất nhanh và trôi chảy. Giản Dao không thể không chú ý, giọng nói của anh trầm thấp, dày dặn mà rõ ràng, tựa hồ âm thấp du dương của tiếng đàn piano.
Trong lòng Giản Dao bỗng dưng vui vui. Cô vừa định mở miệng, liền nghe thấy âm thanh ôn hòa và dễ nghe của Bạc Cận Ngôn: “Nhưng tôi không biết sửa. Tôi rất bận, cô cứ tự nhiên, nhưng đừng làm phiền tôi. Tạm biệt.”
Nói xong anh liền quay người đi xuyên qua nhà bếp, vào hành lang hẹp và dài. Hình bóng anh biến mất trong đêm tối.
Hành lang đó thông sang hai căn phòng khóa trái cửa.
Giản Dao đứng yên tại chỗ, không đi theo Bạc Cận Ngôn.
Cô hoàn toàn không ngờ, lần đầu gặp Bạc Cận Ngôn lại trong hoàn cảnh này.
Cô làm việc ở nhà anh, bây giờ mưa to gió lớn, sấm chớp đùng đùng đồng thời mất điện, vậy mà anh bỏ mặc cô một mình ở phòng khách?