Trong bóng đêm, hắn nhếch miệng, ruổi ngựa đến trước ngự liễn, giọng điệu có phần nặng nề, “Bệ hạ, có loạn dân xông vào chùa Thiên Bảo.”
“Cái gì?” Hoàng đế buông Hoa Nùng phu nhân ra, đèn đuốc chiếu sáng một khuôn mặt vừa kinh vừa giận, “Trẫm vừa mới rời đi… Sao chúng dám?”
Tiết Hoàn cười khổ, “Đại khái là bức tượng phật vàng của thần quá gây chú ý,” Giọng hắn không lớn, sợ quấy nhiễu đến các tùy tùng bên cạnh, cờ lệnh trong tay vung lên, đám thị vệ mặc giáp trụ quây lại hai bên ngự liễn, bảo vệ hoàng đế đến gió thổi không lọt. Tiết Hoàn nói: “An nguy của bệ hạ quan trọng, về cung trước đã, thần sẽ phái một đội thị vệ khác đến chùa Thiên Bảo bắt loạn dân.”
Hoàng đế được hắn nhắc nhở, cũng sợ loạn dân va chạm thánh giá, không nói thêm nữa, một đoàn người ngựa vội vàng đi vào Tuyên Dương Môn, trở về cung thành. A Tùng ngồi trên liễn bị rung lắc đến độ buồn nôn, trong tiếng giáp trụ và binh khí va chạm loảng xoảng, sắc mặt hoàng đế mỗi lúc một căng thẳng. Nàng vốn đã hơi phiền cáu, đến lúc này, niềm vui vì giành được thánh sủng đã biến mất quá nửa.
Rời khỏi vòng tay hoàng đế, nàng ngồi thẳng dậy, buồn chán ngắm trăng đêm rải ánh trong vắt xuống đất.
Vừa xuống ngự liễn, nàng nói ngay: “Bệ hạ, thiếp muốn đi xem hoa sen trong Thiên Uyên Trì.”
“Người đâu.” Trong cung đã sớm nhận được tin tức, hoàng đế gọi một tiếng, lập tức có cung tì và nội thị thành đoàn ùn ùn ùa đến, vui mừng hớn hở bái kiến Hoa Nùng phu nhân mới phong. Bấy giờ A Tùng mới mỉm cười, uyển chuyển tạ ơn hoàng đế, đi tới Hoa Lâm Bồ, thấy sương mù mờ mịt trên Thiên Uyên Trì nâng niu từng đóa hoa sen bung nở, đọng sương ngậm hương dưới ánh nến đỏ. A Tùng phấn khích trở lại, chỉ huy cung tì hái đóa hoa tươi đẹp nhất cài lên tóc mai, hào hứng thưởng thức bày trí trong điện.
Lưu chiêu dung nghe phong thanh đi đến, thấy cô ả được phong là “Hoa Nùng phu nhân” kia đang tặc lưỡi tán thưởng một tấm bình phong điêu khắc hoa văn, Lưu chiêu dung cười “phụt” một tiếng, “A Tùng,” Ả mở một cây quạt lụa ra, ung dung ngồi lên điện, “Hai năm không gặp, tầm mắt ngươi vẫn thật là nông cạn.” Ả cố ý đánh giá tóc A Tùng, muốn đem chuyện ở Hoa Lâm Bồ trước kia ra sỉ nhục nàng, “Tóc ngươi cũng vẫn kì dị quái đản như thế, sao không trùm lại đi?”
“Trùm làm gì?” A Tùng tủm tỉm, đóa hoa sen kia cài lên tóc nặng trịch, nàng gỡ xuống, phe phẩy trên mặt, chẳng buồn để ý, đáp: “Bệ hạ thích ta thế này mà.”
Lưu chiêu dung nhìn vẻ mặt tiểu nhân đắc chí của nàng mà phát ghét, ả lạnh mặt nói: “Hoa sen ở đây mới nở được mấy ngày, trong cung không ai được hái, bị ngươi chà đạp hết rồi.”
“Ta thích,” A Tùng cười khanh khách, “Ai bảo không được hái? Bệ hạ đã ban cả hồ sen này cho ta, ta muốn hái thì hái.” Không chỉ muốn hái, nàng còn sai hai nội thị thả thuyền con vào Thiên Uyên Trì, hái hết hoa sen nở đương rộ lên, giọt sương đượm hương thơm thanh khiết bắn tung tóe, nàng cũng chẳng quan tâm, trải một lớp thật dày lên giường, nằm lên đó lăn hai vòng.
Lưu chiêu dung nhìn cái hồ trụi lủi, tức tối mắng: “Thô tục!” Ả là khuê tú nhà thi thư, không mắng ra nổi lời nào khó nghe, chỉ đành lạnh lùng chế giễu: “Phung phí của trời!”
“Cô còn đứng đây làm gì?” Hiếm lắm A Tùng vui vẻ được một hồi, nàng không chút khách khí đuổi người, “Chờ bệ hạ à? Nhưng bệ hạ nói cô quá xấu, ngài ấy nhìn cũng chẳng muốn nhìn cô.”
Gương mặt xinh đẹp trắng trẻo của Lưu chiêu dung tái xanh, vứt quạt lụa xuống giận đùng đùng bỏ đi. A Tùng đắc ý vô cùng, cười chúm chím trong chồng hoa sen một lúc. Cung tì đỡ nàng dậy – nàng vui chơi một trận, đã đổ mồ hôi nóng đầy người, tóc mai cũng thấm ướt, cung tì đẩy nàng vào thùng tắm, thấy nàng thô lỗ thì lo lắng khuyên nhủ: “Phu nhân như thế này sao hầu hạ được bệ hạ?”
A Tùng chừng ấy tuổi rồi mà chưa bao giờ được ai hầu hạ sinh hoạt. Da thịt trắng muốt ướt nước khi ẩn khi hiện trước mắt, nàng tự thấy ngại ngùng trước, nhưng vẫn rất bình tĩnh, tránh cho Lưu chiêu dung lại cười nàng chưa trải đời. Nàng hùng hồn nói: “Bệ hạ thích ta thế này.”
Cũng có lẽ hoàng đế thích nữ nhân khóc lóc sướt mướt, gió thổi là ngã. A Tùng nhớ đến Viên phu nhân ở chùa Thê Vân, đôi mày thấm nước đen nhánh nhíu chặt.
Nam nhân đại khái đều như vậy. Lúc Đạo Nhất đè nàng lên giường, kì thực biểu cảm trên mặt cũng hơi dữ tợn, như muốn ăn thịt người, nhưng khi đó nàng chẳng những không sợ mà còn thích mê… A Tùng hồi thần khỏi cơn trầm tư, hừ lạnh một tiếng – Hoàng đế mà dám đánh nàng, nàng sẽ cắn đứt cổ y.
Cung tì thấy nàng lúc thì cau mày, lúc thì chúm chím, biểu cảm thay đổi trong nháy mắt, thì nhẹ nhàng che miệng cười khẽ, đưa một tấm gương đồng lăng hoa tới, nói: “Phu nhân, ngài xem ngài đi, mặt hồng phơn phớt, mắt long lanh nước, ưa mắt quá chừng.”
A Tùng chớp chớp rèm mi cong dài, nửa ngày nay nàng đã nghe quá nhiều lời tán tụng đến mất cả cảm giác. Bình thản liếc vào gương, nàng xì một tiếng: “Ta đương nhiên là đẹp rồi, bằng không sao ai cũng thích ta chứ?” Nàng đương vui vẻ, không muốn nghe đến hai chữ bệ hạ, chán ghét dựng mày, nàng nói: “Ngươi mau im miệng đi, ồn ào quá thể.”
Cung tì đáp dạ, nhìn đồng hồ nước, “Canh ba rồi.”
A Tùng tắm xong, được các cung tì vây quanh, trên đầu chồng chất hết trâm này thoa nọ, trên người cũng khoác hết lớp này đến lớp khác, bắt đầu thấy nóng ruột. Thoạt đầu nàng ngồi trên điện đợi, sau đó nhoài ra sập đợi, vừa nghe thấy động tĩnh là lập tức cảnh giác mở mắt ra, “Bệ hạ tới à?” Hỏi không biết bao nhiêu lần, đến khi nến cháy thành tro, trăng lặn sao mờ, nàng không chịu nổi nữa, ngã nhào ra giường, ngủ thiếp đi.
Lúc ban mai tờ mờ, Tiết Hoàn đã đến ngự tiền phục mệnh, “Loạn dân cướp bóc ở chùa Thiên Bảo đều đã bị bắt.”
“Loạn dân cái gì?” Hoàng đế nén giận cả một đêm, đột ngột đập bàn, “Trẫm vừa mới giá hạnh chùa Thiên Bảo, bọn chúng rõ ràng là mưu phản!”
Gần đây trong thành Kiến Khang dân lưu lạc hoành hành, người chết đói đầy đất, Tiết Hoàn đã sớm quen, hắn đáp: “Bệ hạ nói phải.” Còn nói: “May mà bọn nghịch tặc này chỉ cướp tiền, không hại người, đại điện hạ bình an vô sự.”
Ngón tay hoàng đế xoa trán, hồi lâu sau mới cất giọng khản đặc hỏi: “Dạo này trong thành nhiều loạn dân lắm à?”
“Thi thoảng có vài vụ ạ.” Ngữ điệu Tiết Hoàn rất bình thường.
Lời hắn nói lại không giúp hoàng đế giải được sầu, hoàng đế thở dài, nói: “Đón Hồng Nhi về cung đi, cả hai mẹ con ở chùa Thê Vân nữa,” Đến tận bây giờ, nhớ tới phế hậu, y vẫn căm ghét tột độ, nói với nội thị: “Tìm cung thất hẻo lánh nhất cho Vương thị, trẫm không muốn thấy cô ta!”
“Vâng.” Tiết Hoàn quan sát vẻ mặt hoàng đế, cười nói: “Hoa Nùng phu nhân vẫn đang chờ bệ hạ ở Hoa Lâm Bồ đấy ạ.”
“Bây giờ trẫm làm gì có tâm tư đó?” Hoàng đế nổi sùng, ném một tấu chương ra trước mặt Tiết Hoàn, “Ngươi xem đây là cái gì đi, đưa tới từ mấy ngày trước, trẫm chưa rảnh để xem, vừa rồi tiện tay giở ra mới biết xảy ra đại sự.” Hoàng đế tức giận vung tay áo, “Cả triều văn võ người nào người nấy tin tức nhanh nhạy, thế mà không một ai nhắc tới nửa câu trên triều hội!”
Tiết Hoàn nghe câu này, đã đoán được đại khái ngọn nguồn. Hắn vẫn nhận lấy, đọc kĩ, kinh ngạc thốt: “Thứ sử Nam Dự Châu phản loạn?”
“Nam Dự Châu cách Kiến Khang chỉ sáng đi chiều về, ngươi nói trẫm có dám nhắm mắt không?”
Tiết Hoàn nói: “Bệ hạ chớ lo, thần sẽ lập tức triệu tập nhân mã cấm quân, ngày đêm canh giữ từng cửa cung, đề phòng loạn dân và phản tặc xâm phạm.”
“Cả cổng thành các nơi nữa, cũng phải tử thủ.”
Nhân số cấm quân chỉ có từng ấy, vì chiến loạn nhiều năm, từ lâu đã giật gấu vá vai, giữ cửa cung là khỏi thủ cổng thành, ngoài có phản quân, trong có loạn dân, tòa thành Kiến Khang này đã lung lay sắp đổ đến nơi rồi… Tiết Hoàn bụng nghĩ, miệng thì nhận lời, “Vâng.”
“Bệ hạ.” Một nội thị lật đật chạy lên điện, trình chiến báo của Bành Thành lên, “Lương thảo trong thành đã cạn, mấy châu quận chung quanh đều bị Phàn Đăng cướp bóc hết sạch, các tướng sĩ chỉ có thể giết ngựa để ăn, Đàn thị trung xin bệ hạ ra quyết định, có lui binh hay không?”
“Không được lui!” Hoàng đến ném chiến báo vào mặt nội thị, ngực phập phồng dữ dội, mắt y bắn ra từng tia dữ tợn, “Dám lui nửa bước, ta giết cả nhà Đàn thị! Bắt Đàn Đạo Nhất cho ta, lệnh nó cùng tiến cung với Hồng Nhi! Đàn Tế dám lui, ta chém nó.”
Nội thị khiếp đảm run sợ dập đầu thỉnh tội, “Vâng, bệ hạ bớt giận.”
Trong một đêm, người người trong cung đều lo ngay ngáy, phỏng chừng nhòm ra nội tâm hoàng đế bất an và nóng nảy qua sắc mặt âm trầm của y, triều thần không cáo bệnh cũng về hưu, trốn trong nhà không dám ló đầu. Tâm trạng hoàng đế không tốt nên cũng chẳng buồn gặp các phi tần, đến Hoa Nùng phu nhân mới mấy ngày trước còn khiến y mừng như vớ được của báu, còn ban cho cả một hồ sen, y cũng chẳng đi gặp lại lần nữa.
A Tùng tựa vào lan can, tay xoay xoay một bông sen sắp tàn. Gió thoảng từng cơn, lá xanh xoay tròn trong hồ Thiên Uyên tựa sóng biếc phun trào. Hoa đã bị nàng hái sạch, cành trụi lá rách, tịch mịch muôn nỗi. Đám cung tì xì xầm nói xấu, bảo nàng vừa tiến cung đã thất sủng, ngay sau đó thì đến thứ sử Nam Dự Châu phản loạn – ắt là cô ả này không may mắn, A Tùng chỉ coi như không nghe thấy.
Tơ lụa gấm vóc chồng chất như núi, bị tùy tiện dồn đống trên giường. Nàng chê nóng, chỉ mặc một bộ y phục lụa xanh tay áo rộng mà ống quần ngắn, để lộ cổ tay cổ chân, như một đứa trẻ nam nữ bất phân.
Có lẽ hoàng đế thực sự quên mất nàng rồi, A Tùng đoán, chút thấp thỏm từng có cũng biệt tăm tung tích. Nàng cảm thấy có hơi vô vị.
Các cùng tì hãy còn đang thì thầm to nhỏ, A Tùng rón ra rón rén đi tới, núp sau bình phong dỏng tai lên nghe y như khi ở Hoa Nùng biệt viện hồi xưa.
Khéo sao, họ đang nhắc đến Đàn Đạo Nhất.
Hoàng đế đón đại hoàng tử Nguyên Hồng tiến cung, lệnh Đạo Nhất theo hầu, ở ngay Huyền Phố sau Đông Cung, đó là Phật đường trong vườn thượng uyển, là nơi các đời hoàng đế thanh tu thờ Phật.
Họ ngấp nghé Đàn lang từng danh chấn Kiến Khang, đang xúi giục lẫn nhau, muốn mượn cớ đi Huyền Phố một chuyến, nhìn trộm xem chàng làm hòa thượng có còn anh tuấn không.
“Xấu,” A Tùng đi ra từ sau bình phong, khinh khỉnh nhìn họ, “Mất tóc rồi còn anh tuấn thế nào được nữa?”
Đám cung tì bị nàng dọa cho giật mình, kéo tay áo nhau lui xuống. Nàng biết họ lén đi xem hòa thượng, trong lòng cáu bẳn.
Chốc lát sau lại nghe thấy tiếng bước chân hỗn loạn, A Tùng ngoảnh lại nhìn, thấy đám cung tì hoa dung thất sắc chạy về Hoa Lâm Bồ. A Tùng sung sướng trước sự đau khổ của người khác, cười khanh khách hỏi: “Hòa thượng xấu thế cơ à? Mà các ngươi sợ đến mức này?”
“Phu nhân,” Có cung tì hoảng hốt, “Có kẻ mặc giáp xông vào!”
A Tùng chống cằm ngắm Thiên Uyên Trì, lơ đễnh đáp, “Không phải người của Vũ Lâm giám hả?”
“Không giống ạ! Kiếm của chúng đều dính máu, thấy cung tì là cướp!”
A Tùng từng thấy các bộ tộc Nhu Nhiên tranh cướp dê bò và nô lệ của nhau, nàng vứt nhành hoa trong tay xuống, kinh ngạc nhìn ra ngoài Hoa Lâm Bồ, ở đó là lớp lớp tường cung, kể từ khi tiến cung, nàng chưa từng bước ra nửa bước. “Bọn thị vệ Vũ Lâm giám đi đâu hết rồi?”
Không ai biết. Bọn cung tì và nội thị trông thấy máu đều sợ vỡ mật. Lưu chiêu dung được mấy cung tì gắt gao theo chân, xông vào Hoa Lâm Bồ, miệng gọi “Bệ hạ”, điên cuồng lục lọi trong điện một hồi, soát cả sau bình phong lẫn dưới gầm giường, đến một bóng người cũng không có. Ả túm lấy A Tùng, thét: “Bệ hạ đâu?”
A Tùng lắc đầu, “Ta cũng không biết.”
Lưu chiêu dung tóc tai bù xù, ngồi co ro dưới mặt đất, lẩm bẩm: “Họ nói đêm qua bệ hạ đã ngầm dẫn mấy hoàng tử đến hành cung Tử Tuyền ở Nam Sơn, thị vệ Vũ Lâm giám cũng bị mang đi rồi.” Ả rơi lệ gọi một tiếng bệ hạ, loạng choạng muốn đuổi theo ra ngoài, chợt nghe bên ngoài tường cung vang lên một tràng la hoảng, tức thì khiếp hãi không dám nhúc nhích.
Mấy nội thị to gan rón rén đi đóng cửa cung, một đám người run lẩy bẩy trốn trong điện, lúc lúc lại nghe thấy bên ngoài có tiếng đao kiếm va chạm, tiếng kêu la thảm thiết, cũng chẳng biết là của ai. Trốn đến buổi tối, chợt thấy nửa bầu trời thiêu đốt đỏ rực, gió đêm nóng rang thổi dạt lá sen sang một bên. A Tùng nói: “Cháy rồi.”
Mọi người yên tĩnh nhìn thế lửa, trong ngoài điện lặng ngắt như tờ, Lưu chiêu dung tuyệt vọng với hoàng đế, ả nói: “Ta phải xuất cung, ta phải về nhà, ta còn phụ thân huynh đệ.”
A Tùng không có nhà, nàng đến Kiến Khang một mình, vào cung với hai bàn tay trắng. Nàng không có phụ thân, cũng không có huynh đệ.
Đám cung tì đi theo Lưu chiêu dung, dáo dác dò dẫm đi ra ngoài.
A Tùng mặc kệ họ, nàng lục tung khắp điện, không tìm được món đồ nào sắc nhọn, đành vớ đại một cái chặn giấy trên bàn nhét vào ngực áo. Buộc ống quần lại, quăng giày tơ mềm mại đi, nàng lại biến thành đứa nhóc xấu xí hồi trốn ra khỏi Nhu Nhiên. Vừa ra khỏi điện thì nghe thấy tiếng ai hét thảm thiết không ngớt, một binh sĩ xách đao xông vào như hổ đói vồ mồi, trông thấy Lưu chiêu dung ăn bận lộng lẫy thì hò reo, ném đống châu ngọc ôm trong lòng xuống, tiến lên tóm chặt cổ tay ả, “Tìm thấy yêu phi rồi.”
Đám cung tì hoảng loạn nhào lên cướp người, lôi kéo xô đẩy với tên lính kia. A Tùng thừa cơ chuồn ra cửa, guồng chân chạy dọc theo chân tường. Nàng mới đến, không quen thuộc đường lối trong cung, chạy được mấy bước, mù tịt bốn bề.
Bỗng bị ai ôm lấy từ sau lưng, A Tùng kinh hãi, sợ thu hút truy binh, nàng ngậm chặt miệng, hai chân đá loạn xị, bị người kia nắm vai xoay người lại, “Là ta.”
Là Tiết Hoàn, hắn đã đổi sang y phục của binh lính bình thường, trên người dính máu, dưới ánh lửa, trán còn lấm tấm mồ hôi.
Sau thoáng mừng rỡ, A Na Côi lại nhíu mày, “Không phải anh đã theo hoàng đế đi Nam Sơn rồi sao?”
“Nguyên Tu tự mình bỏ chạy trối chết, để lại mười mấy thị vệ cho ta giữ cửa cung.” Tiết Hoàn chẳng mảy may khách khí mà gọi thẳng tục danh của hoàng đế. Phàn Đăng còn chưa đến, phản quân Nam Dự Châu đã đánh vào Kiến Khang trước. Tiết Hoàn trấn thủ cửa cung gian nan, bèn dứt khoát thay y phục trà trộn vào phản quân vào cung. Hắn ôm A Tùng vào lòng, nói: “Ta mang cô xuất cung.”
Trong mắt hắn còn lóe lên ý cười – A Tùng chợt nhớ đến vẻ mặt đầy chế nhạo của hắn đêm nàng tiến cung, trong lòng nàng nhói lên, hất vai giãy ra, A Tùng phòng bị tránh xa hắn vài bước, “Ta sẽ tự đi, anh tránh xa ta ra.”
Tiết Hoàn chăm chú nhìn biểu cảm trên mặt nàng, hắn cười giễu cợt, “Cô có biết vì sao phản quân Nam Dự Châu xông vào cung không?”
A Tùng cau mày, “Vì Lưu chiêu dung?”
“Vì cô,” Tiết Hoàn đáp, “Họ lấy danh nghĩa thanh quân trắc, sát yêu phi xông vào cung – Nguyên Tu ban Hoa Lâm Bồ cho cô, hiện giờ cả thiên hạ đã biết cái danh Hoa Nùng phu nhân rồi.”
Đồ vô dụng nhát cáy Nguyên Tu, nghe thấy tên y là A Tùng muốn nổi cơn tam bành, hung tợn phỉ nhổ y một trận, nàng vùi đầu rảo bước về phía trước.
Tiết Hoàn để ý động tĩnh chung quanh, thỉnh thoảng lại liếc mắt qua sườn mặt A Tùng, trầm mặc khoảnh khắc, hắn nói: “Cô hối hận rồi.”
“Ta không hối hận!” Giọng A Tùng vừa lạnh vừa cứng.
“Thực ra cũng chẳng có gì ghê gớm,” Tiết Hoàn vẫn đang tủm tỉm, “Giành được một phen danh tiếng vang dội ở lễ Vu Lan, lấy được một phong hiệu phu nhân, tuy không vào tay được một cái lợi thực tế nào, còn chọc phải phiền phức quấn thân, nhưng Nguyên Tu còn chưa kịp chạm vào cô, cũng không tính là tổn thất quá nghiêm trọng.”
A Tùng đứng khựng lại, nàng siết nắm đấm, tức muốn nổ phổi, chút ánh lệ như ẩn như hiện đảo quanh mắt, “Anh nói thêm một chữ nữa xem, ta đánh anh.”
Nàng thực sự thương tâm, Tiết Hoàn bèn ngậm miệng, dẫn đầu đi về phía trước, “Đi thôi.” Trên đường cung thỉnh thoảng xuất hiện lác đác binh lính phản quân hãy còn đang vơ vét tài vật ở các cung, Tiết Hoàn im ắng chém ngã vài tên, nghe thấy tiếng giáp trụ loảng xoảng, Tiết Hoàn nắm lấy cổ tay A Tùng, hạ giọng nói: “Đi mau.”
A Tùng được hắn dắt, đi tắt qua lối nhỏ vắng vẻ nên rất nhanh, thình lình trông thấy cửa cung trong tầm mắt, A Tùng không chịu đi nữa, “Đi đâu?”
Tiết Hoàn nửa kéo nửa ôm A Tùng lên ngựa, bản thân cũng giẫm bàn đạp lên ngựa, ngồi đằng sau nàng nắm dây cương, “Ta có một căn nhà ở cầu Đông Môn, không ai biết, cô tạm náu ở đó một khoảng thời gian đã.”
A Tùng ngang bướng đòi xuống ngựa, “Ta không đi.”
Tiết Hoàn hô “Giá” giục ngựa chạy đi, cười lạnh nói: “Đôi lúc ngớ ngẩn một chút thì không sao, cô mà còn không biết sống chết nữa là ngu xuẩn thật đấy.”
A Tùng bị hắn ghì trên ngựa không động đậy được, chợt thấy hơi ẩm ướt, cúi đầu nhìn, cánh tay Tiết Hoàn ôm nàng đang chảy máu, y phục đều bị thấm ướt. “Anh bị thương.”
“Không chết được.” Chỉ là vết thương da thịt, Tiết Hoàn không để ý, sắc mặt hắn dịu xuống phần nào.
Phản quân lục tung thành Kiến Khang, ngoài đường bừa bộn lộn xộn, người già trẻ con bàng hoàng vừa gào khóc vừa la gọi người nhà đã tự bỏ chạy. Tiết Hoàn ngoảnh mặt làm ngơ, ngó xuống A Tùng cúi đầu im lặng, hắn cười như không cười: “Muốn làm nữ nhân của hoàng đế đến vậy cơ à, mạng cũng không cần nữa?”
Giọng điệu hắn không có trào phúng, chỉ thuần túy hiếu kì. A Tùng mờ mịt tựa vào ngực hắn, ngẩn ngơ nửa ngày, nàng nói: “Trước đây ở Nhu Nhiên, mẹ ta đã phải trải qua rất nhiều đau khổ. Bà ấy hát hay lắm.” Nàng lau nước mắt, ngậm cười, lắc lư đầu hát: “Em ơi em mình trao khăn tay, trao qua lại như đuôi dê vẫy. Trên ván mọi nhà có gì đấy? Một bé phỗng vàng này, một bé phỗng bạc này, cõng phỗng mình chạy bay. Chó vàng chó vàng giữ nhà thay, mai nở vườn nam ta hái đầy.”
Tiết Hoàn yên lặng nghe, nói: “Hơi quen tai, ta từng nghe thấy ở Lạc Dương, chắc mẹ cô là người Lạc Dương đấy.”
A Tùng ồ một tiếng, “Anh tới từ Lạc Dương à?”
Tiết Hoàn không lên tiếng, ngầm thừa nhận.
A Tùng túm cương ngựa, quay đầu chất vấn Tiết Hoàn, “Anh giấu ta ở nhà anh, sau này thì sao?”
Tiết Hoàn cười đáp như chuyện đương nhiên: “Sau này, tất nhiên là cô theo ta, làm nô tì rửa chân của ta rồi.”
A Tùng cau mày, “Ta không theo anh đâu.”
“Quyết định không do cô.”
A Tùng mím môi không nói gì, đi được một đoạn, nàng quay đầu, phóng mắt ra xa ngó vào trong cung thành nguy nga. “Này,” Nàng xoay người trên ngựa gọi Tiết Hoàn, Tiết Hoàn cúi xuống nhìn nàng, A Tùng lặng lẽ móc chặn giấy ra, nện mạnh vào đầu Tiết Hoàn.
Tiết Hoàn không đề phòng, bị nàng dùng chặn giấy đập cho trước mắt tối sầm, thân mình nghiêng ngả trên lưng ngựa, suýt ngã ập xuống đất.
A Tùng nhanh nhẹn nhảy xuống ngựa, chạy đi không quay đầu lại.
Tiết Hoàn buông cương ngựa, xoa trán, choáng váng trên ngựa hồi lâu, lúc ngẩng đầu lại, A Tùng đã sớm mất dạng. “Con điếm con.” Hắn nghiến răng chửi thầm, lắc đầu, mấy giọt máu chảy xuống mí mắt.