Vương Lao mang theo văn thư, tự xưng là phụng mệnh tẩm lệnh, đến thu xếp việc cúng tế ở lăng viên, còn A Na Côi thì là tì nữ sinh tiền của tiên hoàng hậu, tự nguyện đến thủ lăng. Cung nhân canh mộ không nghi ngờ gì, vui vẻ bàn tán: “Bệ hạ nhân hiếu, thế này là muốn cải tạo lăng viên cho tiên hoàng hậu đây.”
Trong lăng viên quạnh quẽ, màn đêm buông xuống, đến đèn cũng chẳng có mấy ngọn. Vương Lao và A Na Côi được cung nhân canh mộ dẫn đến điện thờ đơn sơ, trên tường trong điện chằng chịt tơ nhện, cống phẩm cũng chỉ có mấy món hoa quả đã thối rữa.
A Na Côi châm hương, quỳ xuống khom người, bái một cái thật sâu trước linh vị Vương thị.
“Sinh thời điện hạ thích hương mộc tê, sao các vị không trồng mấy cây mộc tê bên ngoài?” Nàng nhẹ giọng hỏi.
Cung nhân già lau nước mắt, “Chuyện này đại khái cũng chỉ còn nương tử biết. Chúng nô canh giữ ở đây ba năm, chỉ có nương tử và lang quan đến tế bái điện hạ.”
“Đằng sau điện thờ là mộ thất à?” Vương Lang không kịp chờ đợi, hỏi.
Cung nhân già đáp phải, đêm thu lạnh lẽo, gió rít từng trận u oán, ông ta giơ tay che chở cho ngọn đèn, lui tới chỗ cách xa linh vị, nói: “Trời tối rồi, hai vị nghỉ ngơi sớm chút, ở đây âm khí nặng, đừng đi lung tung.”
A Na Côi và Vương Lao liếc mắt nhìn nhau, trở lại chỗ ở của riêng mình. Họ xem như cũng ăn ý, mấy ngày sau đó đều giả vờ như không có chuyện gì xảy ra, một người tuần tra quanh lăng viên, một người quét dọn điện thờ, dần quen thuộc với các cung nhân canh mộ. Vương Lao từ bên ngoài trở lại, thấy điện thờ được quét dọn sạch sẽ, còn cúng quả dại tươi mới, thừa dịp xung quanh không có ai, Vương Lao ngạc nhiên hỏi: “Cô định ở lại đây thủ lăng thật đấy à?”
A Na Côi đáp: “Dù rằng khi còn sống là người đáng ghét, nhưng bà ấy cũng có con gái, con gái cũng biết nhớ mẹ mình…”
Vương Lao đến Giang Nam chỉ để cậy nhờ Đàn Đạo Nhất, hắn có phần khinh thường, nói: “bà ta không chỉ có con gái mà còn có con trai kia.” Nghĩ đến quốc tỉ có khả năng ở ngay trong mộ thất cách đây một bức tường, hắn nóng ruột đỏ cả mắt, “Đêm nay chúng ta…”
Lời còn chưa ra khỏi miệng, cung nhân già đã mừng rỡ chạy vào, hô: “Mau nghênh giá, thánh giá tới!”
Nguyên Hồng! Cậu đột ngột tới như để đáp trả lời châm chọc của Vương Lao. Vương Lao chột dạo, nhất thời toát mồ hôi lạnh dọc sống lưng, lần lượt cùng A Na Côi đi ra khỏi điện thờ, xa xa thấy nghi trượng hoàng đế đi từ đường núi quanh co xuống, hai người vội vàng quỳ xuống đất, không dám ngẩng đầu lên.
Nguyên Hồng xuống khỏi ngự liễn, giẫm lên hoa cỏ rậm rạp, đến trước linh vị Vương thị dâng một nén hương. Gần đây cậu bận bịu chiến sự, lúc tạm rảnh mới nhớ đến chuyện truy phong, nay lại thấy lăng mộ Vương thị tan hoang nghèo nàn, trong lòng khổ sở, nói với quan viên đi theo: “Xây lại lăng viên theo quy cách hoàng hậu đi,” Cậu cũng xem như một thiếu niên nhân hậu khoan dung, “Cả cung nhân canh mộ nữa, thưởng cho họ.”
Các cung nhân vội vàng tạ ơn, những người này không phải tuổi già thì cũng ốm yếu, Vương Lao ở trong đó nom hơi nổi bật. Ánh mắt Nguyên Hồng đảo qua đỉnh đầu hắn, thoáng khựng lại, quét trở về, cậu quan sát Vương Lao, hồ nghi nói: “Trông ngươi quen quen.”
Vương Lao cắn răng nhắm mắt, nói: “Thần được tẩm lệnh phái đến tu sửa lăng viên.”
Nguyên Hồng ừ một tiếng, ánh mắt đậu lại trên người Vương Lao một khoảnh khắc, cuối cùng không nói gì, nán lại điện thờ một lúc rồi được tùy tùng bao bọc, bước lên ngự liễn, trở về Kiến Khang.
Vương Lao lập tức ngồi bệt ra đất, mồ hôi lạnh thấm ướt y phục. Đêm đó, hai người không dám rề rà thêm nữa, đợi trời tối người lặng, bèn vòng qua điện thờ, lẻn vào mộ thất từ cửa nhỏ. Trong mộ thất chật hẹp, trên vách tường còn chẳng có đế để đèn, hơn nữa, vì chưa từng có ai đến nên trên quan tài phủ bụi rất dày, tỏa ra mùi mục nát.
Vương Lao vội vàng đặt đèn dầu sang một bên, hai người hợp lực, từ từ mở nắp quan tài, không đợi nhìn kĩ, chỉ thấy chút lấp lánh mơ hồ lơ lửng trong quan tài u ám. Vương Lao nín thở, chỉ trong chớp mắt ấy, A Na Côi đã thừa cơ nhanh chóng vươn tay, một khối ngọc thạch lạnh giá trơn láng lọt vào lòng nàng.
Vương Lao kích động đến run giọng, “Đưa tôi.”
A Na Côi nắm chặt quốc tỉ, nhanh nhạy tránh khỏi hướng nhào lên của Vương Lao. Nàng lấy Đàn Đạo Nhất ra uy hiếp hắn, “Lang quân các ngươi lệnh ta đi lấy.”
Vương Lao nuốt nước bọt, không cam lòng cho lắm. A Na Côi nhìn chằm chằm hắn một hồi, bỗng nhắc nhở: “Trên người Vương hoàng hậu trước khi lâm chung còn có rất nhiều đồ trang sức, ta không cần, cho ngươi cả đấy.”
“Thật à?” Vương Lao không rảnh sợ hãi, giơ ngọn đèn dầu, quờ quạng lung tung mấy cái trong lớp lớp xiêm y dày nặng, lấy được mấy món vòng ngọc trâm cài đắt giá, nhét vào ngực áo, một lần nữa đóng nắp quan tài. A Na Côi dập “phụt” tắt đèn, hai người chui ra khỏi mộ thất, đi nhanh ra điện thờ.
Đèn hai bên phòng vu điện thờ lần lượt sáng lên. “Cái gì thế?” Vương Lao nghi ngờ hỏi. Hai người một trước một sau đứng lại.
Có thị vệ cầm đao đi từ phòng vu ra, thấy Vương Lao và A Na Côi còn ở trong sân thì xông lại như hung thần ác sát, bắt lấy hai người. Trong khoảnh khắc, mấy cung nhân canh mộ trong phòng vu đều bị xua ra ngoài, trước điện thờ đèn đuốc sáng choang, chiếu rõ sắc mặt kinh hoàng của mọi người – thị vệ dẫn đầu có vẻ đã được dặn dò từ trước, cười lạnh với Vương Lao.
“Trong lăng viên hoàng hậu có kẻ cắp trà trộn.” Hắn sai tùy tùng, “Lục soát.”
Vương Lao hơi biến sắc, bị hai thị vệ cường tráng giữ chặt, móc một đống trang sức vàng ngọc trong ngực áo hắn ra. Mà A Na Côi thì túi tay và ngực áo đều trống không, từ đầu đến chân không có lấy một cái kim nào, lục soát xong lập tức bị đẩy ra. Vương Lao thấy thế, trợn to hai mắt, vẻ mặt đầy kinh ngạc.
A Na Côi cúi thấp đầu như các cung nhân hoảng sợ khác, lui vào trong đám người.
“Quả nhiên là trộm.” Thủ lĩnh thị vệ ước lượng số trang sức kia, cao giọng nói: “Mang về thẩm vấn.” Đoạn nghênh ngang rời đi. Ban ngày thánh giá mới đến, ban đêm đã có trộm ghé thăm, các cung nhân kinh hãi khôn xiết, run sợ đứng ngoài điện thờ chốc lát rồi ai về chỗ người nấy.
Trong im lìm lặng ngắt, A Na Côi bỗng xoay người, nhanh chóng trở lại mộ thất, nhặt quốc tỉ vừa rồi mình nhân lúc tối đèn ném về quan tài lên, lấy áo quần rách quấn mấy lớp dày, nhét vào ngực áo.
Trong mộ thất xòe tay không thấy năm ngón tĩnh lặng đến độ có thể nghe thấy tiếng thở của mình. A Na Côi quỳ phịch xuống, khấu đầu với quan tài Vương thị, “Điện hạ, ngài đừng trách tôi.” Sau đó nhanh chân chạy ra khỏi lăng viên, lấy ngựa của mình ở dịch trạm dưới núi, phóng như bay.
Chạy một hơi tới bờ sông, sau lưng không thấy truy binh, A Na Côi ghìm cương ngựa, ấn giữ trái tim đập như trống chầu của mình. Ngọc thạch cứng rắn cấn vào da nàng qua tầng tầng tơ lụa bao bọc.
A Na Côi chưa từng đến Bột Hải, nhưng nàng biết mình nên sang sông, chạy thẳng lên Bắc.
Tiết Hoàn nói đừng quên lời hắn, đến Bột Hải chờ hắn.
Chân trời hiện màu trắng lờ mờ, bờ sông đã bắt đầu huyên náo. Thuyền đò từ Giang Bắc tới chở đầy lưu dân áo quần lam lũ, dắt díu vợ con tránh né đại quân của Phàn Đăng. Đến từ mé Tây sông thì là bách tính lùa bò đuổi dê, tránh né Hoàn Doãn.
Mặt trời xua tan sương sớm mặt sông, A Na Côi dắt ngựa, người vật thành đoàn sượt qua người nàng, tháo chạy về Nam.
Ông già lái đò vẫy tay với nàng mấy lần, thấy A Na Côi đứng ngây ra, ông hô to: “Không phải nương tử muốn đi Bột Hải à? Đường sang tây khó đi đấy, Đàn phủ quân và Châu Tuần Chi của Bắc triều đang đánh thủy chiến, đánh đến Thê Long Hiệp rồi.”
Lưu dân chạy từ phía Tây tới lia lia xua tay: “Không đi được đâu, không đi được đâu, trên sông rất nhiều thuyền bị đốt cháy, dọc bờ loạn tiễn như mưa, sơ sảy là mất mạng ngay.”
Ông già lái đò gọi: “Nương tử, lên thuyền thôi.”
A Na Côi dắt ngựa quay đầu, đi về mé Tây sông. Trên đường người đông như mắc cửi, ngựa không chạy nổi, chỉ có thể đi bộ. Về sau, A Na Côi buông cương ngựa, một mình lên đường. Đi hơn mười ngày, nàng dừng lại, trông thấy vô số mái chèo và cờ xí bị đốt trôi xuôi dòng, thi thoảng còn có xác chết bị đánh dạt vào bờ.
Mỗi lần nhìn thấy một cái xác, tim nàng đều ngừng đập một chớp mắt, đợi thấy rõ không phải Tiết Hoàn mới thở phào nhẹ nhõm.
Sắp tới ải Bành Trạch. Nàng leo lên đỉnh núi, dõi mắt trông về phương xa, từ mặt nước phía trước đến chân trời nối liền một vùng đỏ thẫm, không tài nào phân biệt nổi là ráng chiều hay chiến hỏa.
Chiến thuyền của Châu Tuần Chi nghênh đón thủy quân Nam triều gần Bạch Thạch Kỉ.
Hoàn Doãn chế tạo thuyền lầu ở Nam Dương, nặng nề kiên cố, giương buồm mượn sức gió xuôi dòng, ầm ầm mấy tiếng đã đâm nát đội thuyền Nam triều chặn ngang sông, chạy ra khỏi Bạch Thạch Kỉ, thế như chẻ trẻ. Càng đi về phía đông, thế nước càng gấp, mặt nước càng hẹp, trinh sát cưỡi ngựa báo lại: “Đằng trước là đến Thê Long Hiệp.”
Hoàn Doãn gặp phải cản trở ở Bạch Thạch Kỉ, đang ra sức giành bến đò, kị binh chưa kịp lên thuyền, Châu Tuần Chi sợ thuyền trận bị chặn ngang đứt đoạn, giẫm phải vết xe đổ của Hoàn Doãn ở ba ải Nghĩa Dương lần trước, bèn vội vã gọi người chèo thuyền trở về, từ từ tiến lên, chờ gió thổi yếu bớt rồi, nói: “Quay đầu lại, tiếp ứng hậu quân.”
Một chấn động mạnh vang lên, thân thuyền dừng lại. Sau khi xem xét, thuyền công vội bẩm báo: “Dưới nước có cọc ngầm và chông sắt, ván thuyền đã bị gãy một đoạn.”
Châu Tuần Chi thoắt quay đầu, thấy ngọn núi hai bên bờ như một bàn tay khổng lồ kìm chặt cửa eo sông. Lão lập tức cảnh giác, “Quay đầu toàn bộ thuyền.” Cờ xí màu đen phất vài cái, thuyền lầu xông mạnh ra từ hai cánh trái phải, nhưng bị xích sắt chắn lại, vì trọng tâm quá cao, suýt nữa thì lật. Nhất thời, thuyền dồn về cửa eo sông mỗi lúc một đông, cơ hồ lấp kín mặt sông nước chảy không lọt, không thể nhúc nhích. Ba tiếng còi sắc nhọn vang lên, pháo nỏ từ hai bờ đồng loạt bắn, mũi tên như mưa rơi xuống trận thuyền.
Châu Tuần Chi né mưa tên, vội vàng lệnh chúng tướng sơ tán, trong chốc lát người ngã ngựa đổ, rất nhiều thuyền nhỏ bị lạt, Châu Tuần Chi lo sẽ còn gặp cọc ngầm và chông sắt, lại sai người chèo thuyền vào bờ, thống lĩnh thủy quân vội vàng chạy tới can: “Không vào bờ được, hai cánh trái phải đều có thuyền địch.”
Trốn sang tây cũng không dễ, thân thuyền quá lớn, đi ngược dòng rất tốn sức. Châu Tuần Chi bỏ ngoài tai lời khuyên can của chúng tướng, bất chấp pháo nỏ đi lên mũi thuyền, thấy hậu phương bùng dậy ánh lửa, vô số binh sĩ không chịu nổi say sóng, nhao nhao nhảy xuống thuyền nhỏ chèo vào bờ. Thuyền của Nam triều linh hoạt như con thoi, lượn vòng ngoài thuyền trận, hai bên va chạm với nhau, lại là một phen kịch chiến.
“Quốc công, cẩn thận…” Một thuyền lầu của Nam triều đánh thốc từ cánh sườn, phó tướng vội túm Châu Tuần Chi, tránh loạn tiễn bay tới. Châu Tuần Chi khom lưng đang định trốn vào khoang, ngoái đầu lại nhìn, hai con thuyền suýt va vào nhau, người đang được chúng tướng vây quanh trên thuyền, mặt mày dưới ánh lửa rõ ràng sắc nét, chẳng phải là Đàn Đạo Nhất thì ai. Chàng bắn một mũi tên không trúng, liền giương cung rút thêm một mũi tên khác.
“Giỏi lắm, ngươi…” Châu Tuần Chi cười lạnh, lão là quan văn, không thiện võ nghệ, bị thái độ không coi ai ra gì của Đàn Đạo Nhất kích thích đến khí huyết quay cuồng trong ngực. Đẩy thị vệ ra, lão lạnh lùng nói: “Nhảy sang thuyền chúng, bắt thủ lĩnh giặc.”
Ông một tiếng vang vọng, ngực Châu Tuần Chi trúng tên, loạng choạng về sau mấy bước, ngã ngửa ở cửa khoang. Chúng binh tướng chen nhau lao tới, Châu Tuần Chi lần lượt đẩy tay dìu đỡ của người khác ra, gắng sức tìm Đàn Đạo Nhất trong những bóng người lắc lư.
Đằng xa, ánh lửa chói đỏ chiếu xuống nước sông đen ngòm thành những chấm đỏ nhòe ánh lên màu máu. Đàn Đạo Nhất thấy lão chưa chết, lại rút một mũi tên ra. Hôm nay chàng quyết không tha Châu Tuần Chi, thề phải lấy mạng lão ngay tại chỗ.
Châu Tuần Chi chậm rãi lắc đầu, khó nhọc nhoẻn cười: “Vong ân phụ nghĩa, ngươi… sẽ không được chết tử tế…”
Lại một chiếc thuyền lầu bị pháo nỏ đốt cháy, thân thuyền ầm ầm lật úp. Châu Tuần Chi trúng tên, thủy quân còn lại không còn lòng dạ đâu tái chiến, xông phá trận địa địch bỏ chạy về phía tây. Đàn Đạo Nhất rảo bước lên mũi thuyền, tướng lĩnh tới hỏi: “Có đuổi theo không?”
“Không đuổi.” Đàn Đạo Nhất lắc đầu, trận chiến này, hai bên đều hao binh tổn tướng, mà Bạch Thạch Kỉ đã ác chiến từ buổi trưa đến nửa đêm, ngộ nhỡ gặp trúng quân trận của Hoàn Doãn, chàng như nỏ mạnh hết đà, sẽ bị diệt toàn quân trong khoảnh khắc.
Giờ khắc này Vương Huyền Hạc có còn sống không? Chàng nhìn về phía Bạch Thạch Kỉ, lại chỉ thấy bóng đêm mênh mông.
Trở lại thủy trại, chúng tướng đang kiểm kê tù binh, rất nhiều thuyền nhỏ bồng bềnh trên mặt sông, vớt thương binh và mũi tên rơi xuống nước. Đàn Đạo Nhất mắt sáng như đuốc, quan sát bốn phía doanh trại một chốc rồi trở lại khoang, binh sĩ theo hầu vội cởi ngoại bào ướt nhẹp máu và mồ hôi cho chàng, lúc này Đàn Đạo Nhất mới nhớ ra cung còn trên tay, túi đựng tên đã trống rỗng.
Chàng buông tay, ném cung lên bàn.
Binh sĩ thấy vẻ mặt Đàn Đạo Nhất đầy cáu bẳn, không dám chọc giận chàng, chỉ thu áo bào bị bẩn rồi lặng lẽ lui xuống.
Không đến một lúc, binh sĩ rảo bước trở lại, báo: “Như Như nương tử đã về.”
Đàn Đạo Nhất sửng sốt, một lát sau mới phản ứng lại, chàng vịn bàn đứng dậy.
A Na Côi đứng ngoài cửa khoang, không bước vào, thấy Đàn Đạo Nhất đứng lên còn lùi lại một bước.
Đàn Đạo Nhất nhớ đến tình cảnh ngày nàng lên đường, cũng dừng cử động, sắc mặt phai nhạt đi, chàng hỏi: “Lấy được rồi?” Sau đại chiến, trong thủy trại ngập ngụa mùi máu tanh như có như có như không, cổ họng chàng cũng hơi tắt tiếng.
A Na Côi không đáp, ánh mắt nhìn chòng chọc vào trước ngực chàng. Đàn Đạo Nhất cúi đầu xuống xem, vạt áo trước của trung y trắng cũng bị máu nhuộm đẫm, chàng lập tức vỡ lẽ, “Đây không phải máu ta, đây là…”
Bất chợt, A Na Côi ngắt lời chàng, “Họ nói Châu Tuần Chi đã chết.”
“Ồ?” Đàn Đạo Nhất mới nghe được tin tức này từ miệng nàng, lông mày chàng nhướng nhẹ một cái, “Vậy à?”
A Na Côi quá quen thuộc với biểu cảm của chàng, quen thuộc đến nỗi chút đắc ý bí ẩn ấy cũng rành rành trước mắt nàng không chốn náu thân. Trong đầu A Na Côi mờ mịt trống trải, một chốc sau mới hồi thần lại – dọc đường vào thủy trại, nàng không hỏi thăm được chút tung tích nào của Tiết Hoàn, cõi lòng đã sớm chênh vênh, “Tiết Hoàn đâu?”
Ánh mắt lạnh lẽo của Đàn Đạo Nhất đậu lên người nàng, “Đồ bảo cô đi lấy đâu?”
A Na Côi cẩn thận lấy một chiếc hộp nhỏ được gói tầng tầng lớp lớp từ bọc hành lí ra, vứt cho Đàn Đạo Nhất, đồng thời truy vấn: “Tiết Hoàn đâu?”
Đàn Đạo Nhất vững vàng đón lấy, nhìn A Na Côi, nhếch miệng, nói: “Chết rồi.”
Thần sắc A Na Côi đông cứng trên mặt. Chuyến đi này nàng đầy mặt gió sương, bờ môi nứt nẻ, nhếch nhác đến độ khiến người khác không muốn nhìn nhiều. Đàn Đạo Nhất quay trở vào, đặt hộp lên bàn, thong dong cởi bỏ lớp lớp vải lụa gói bọc.
Trong khoang lặng ngắt như tờ. Động tác chàng khựng lại, ngước lên nhìn A Na Côi.
Nàng quay lưng về phía bóng đêm tĩnh lặng bên ngoài, mặt tái nhợt không một sức sống. “Anh lừa tôi.” Nàng nói.
“Hắn đã chết.” Đàn Đạo Nhất đáp như chém đinh chặt sắt. Chàng mở hộp ra, bên trong đựng một cục đá to bằng nắm tay.
Sắc mặt Đàn Đạo Nhất thoắt biến, hất văng cái hộp đi, chàng nhấc chân về phía A Na Côi.
A Na Côi co chân chạy ra ngoài, dừng lại sát mép mạn thuyền. Binh tướng quanh khoang túm tụm vây tới, Đàn Đạo Nhất nói: “Tất cả lui ra.” Đám người tản ra xa, Đàn Đạo Nhất nói với A Na Côi: “Nơi này là doanh trại thủy quân, cô tưởng cô có thể chạy thoát được sao?”
A Na Côi nói: “Anh nói lấy được quốc tỉ sẽ thả chàng.”
“Quốc tỉ cô lấy được ở đâu?”
A Na Côi móc quốc tỉ trong ngực áo ra, đó là một khối ngọc thạch óng ánh tỏa sáng, trong bóng đêm nom y hệt ánh trăng, cũng tựa ánh đom đóm mất phương hướng trong gió thu, cuống quít vỗ cánh. A Na Côi nắm chặt nó trong lòng bàn tay, nói: “Quốc tỉ ở đây.”
Đàn Đạo Nhất như trút được gánh nặng, “Cô đưa cho ta trước, ta sẽ nói cho cô biết tung tích của Tiết Hoàn.”
“Tôi không tin anh.” Giọng A Na Côi bị gió thổi vụn vỡ, nàng lẳng lặng nhìn Đàn Đạo Nhất, “Lúc nào anh cũng gạt tôi.”
“Nhu Nhu…” Giọng Đàn Đạo Nhất mềm xuống, tiến về phía trước một bước.
Thân thuyền bị nước sông vỗ vào, rung lên nhè nhẹ. A Na Côi không chờ hắn tới tóm nàng, vung tay, trong ánh mắt truy đuổi của Đàn Đạo Nhất, khối ngọc thạch vạch ra một đường sáng cụt chớp trên không trung. Đàn Đạo Nhất tung người, ngón tay mát lạnh, bắt được quốc tỉ. Quay đầu lại nhìn, chấn động ban nãy đã khiến A Na Côi hẫng chân đạp hụt, ngã xuống sông, nháy mắt đã biết mất.
“Nhu Nhu!” Tim Đàn Đạo Nhất ngừng đập, chàng nhún người nhảy xuống nước, nín thở chìm xuống đáy, vươn tay quờ quạng, ngoại trừ sỏi đá thì chẳng sờ thấy cái gì. Hết hơi, chàng nổi lên mặt nước, đêm thu im ắng, chri có tiếng nước ào ạt bên tai. Ngọn đuốc của lính tuần đem chiếu sóng nước mặt sông lấp loáng, nhưng không thấy bóng hình A Na Côi. “A Na Côi! A Na Côi!” Chàng liên tiếp gọi mười mấy tiếng, không mảy may có hồi đáp, lại chui đầu xuống nước mò mẫm sờ soạng dưới ván thuyền, còn bơi tới gần bờ sông, ướt lướt thướt lên bờ, đưa mắt ra bốn phía, khàn giọng gọi: “A Na Côi!”
Binh tướng trong trại đều bị kinh động, cùng xuống nước vớt người, mặt sông mới yên tĩnh được mấy tiếng nhất thời huyên náo tiếng người, đèn đuốc chiếu sáng như ban ngày. Tiết Hoàn rùn thấp người, kéo A Na Côi ra sau cây, vuốt mái tóc ướt nhẹp trên mặt.
Nàng không bị sặc bao nhiêu nước, ho mấy tiếng đã tỉnh lại, ngơ ngẩn nhìn Tiết Hoàn.
Tiết Hoàn cúi đầu xuống, nước trên mặt hắn nhỏ xuống mặt A Na Côi, A Na Côi quay mặt đi né tránh. Tiết Hoàn cười gượng, hỏi: “Mất trí nhớ rồi à?”
A Na Côi nằm trên đất, cả người bải hoải không có sức lực, nàng thì thào: “Hắn nói chàng chết rồi.”
Tiết Hoàn cởi y phục của mình ra, vắt kiệt nước rồi quấn lên người A Na Côi, đưa tay lau giọt nước nơi đuôi mày khóe mắt nàng. Hắn nói: “Thừa dịp hắn đi Thê Long Hiệp, ta trốn khỏi thủy trại.” Chỉ vào con thuyền nhỏ trôi nổi đằng xa, hắn nói tiếp: “Nhưng ta không đi xa, giả trang làm tiểu binh múc nước lấy củi, ngày ngày chèo thuyền lên bờ đi loanh quanh xem có gặp được em không.” Hắn oán rách A Na Côi: “Không phải ta bảo em đi Bột Hải à? Em không nhớ?”
Nước mắt A Na Côi rơi xuống không dứt, lau cũng không khô, nàng nói: “Em sợ đến Bột Hải rồi không chờ được chàng.”
“Ta biết ngay mà.” Tiết Hoàn ôm siết nàng vào lòng, môi áp lên trán nàng, nhẹ giọng nói: “Ta cũng thế.”
Rốt cuộc A Na Côi cũng hồi phục được chút sức lực, tay nàng giơ lên, sờ mặt hắn trong bóng tối, nàng ngạc nhiên, “Sao chàng cũng rơi nước mắt?”
Tiết Hoàn cười nàng ngốc, “Là nước chưa lau khô.”
A Na Côi cười, “Nước thì phải lạnh chứ, nước mắt mới nóng.”
Tiết Hoàn mỉm cười, ngó sang bờ bên kia, ánh lửa nơi đó dần tắt, hắn nói: “Hắn về thủy trại rồi.”
A Na Côi vịn đầu gối hắn, cũng bò dậy, nhìn ra lòng sông. Không còn ai tìm kiếm ở bờ sông nữa, A Na Côi nói: “Hắn đã lấy được quốc tỉ mà hắn tha thiết ao ước, sẽ không tìm em nữa.”
Đàn Đạo Nhất đứng nhìn vào bờ một hồi. Binh tướng đi lên nghênh, muốn mời chàng quay lại thủy trại. Chàng trầm mặc dưới màn đêm một hồi, tay siết chặt quốc tỉ lạnh lẽo, sau đó xoay người, gắng giữ bình tĩnh nói với chúng tướng sĩ sắc mặt khác nhau dưới ánh đuốc: “Hồi doanh.”
Trở lại doanh trại, binh sĩ định tiến lại đổi y phục ướt sũng thay chàng, chàng lắc đầu, bảo binh sĩ lui ra, sau đó mở lòng bàn tay. Ngọc thạch được nước sông gột rửa, càng bóng bẩy hơn, tỏa ánh sáng trong trẻo dập dềnh dưới đèn.
Bao nhiêu người đã chết vì nó, lại có bao nhiêu người ngày đêm mong mỏi có thể chiếm hữu nó?
Chàng vứt cục đá, đặt quốc tỉ vào hộp, cất đi.
Đang bần thần thì có binh sĩ rảo bước vào, bẩm báo: “Phía trước truyền tin tức, Vương tướng quân đã bỏ mình, kị binh Hoàn Doãn vượt Bạch Thạch Kỉ, đại quân đã xuống sông, ngày mai sẽ sang đến bờ nam.”
“Đã biết.” Đàn Đạo Nhất ngồi cô độc dưới đàn, không nói gì thêm, cũng chẳng bảo binh sĩ lui ra. Hồi lâu sau, chàng mới hỏi một câu không đầu không cuối: “Người ta có thể sống lại một đời nữa không?”
Người lính kia tưởng là chàng hỏi đùa, cũng cười đáp: “Trong mơ thì chắc có thể.”
“Chắc vậy.” Đàn Đạo Nhất xua tay với binh sĩ, ra hiệu bảo hắn lui ra, mình thì mệt mỏi đứng dậy, đi về phía giường, cứ thế mặc nguyên bộ quần áo ướt rượt nằm vật xuống. Người lính kia dò xét đi tới, thấy dưới ánh đèn, mắt chàng nhắm chặt, mày cau lại, sắc mặt vì lao lực quá độ mà trắng bệch, bèn nhắc chàng nên cởi quần áo ra. Đàn Đạo Nhất không mở mắt.
“Đừng ồn ào,” Một lát sau, chàng mới nói, “Để yên cho ta ngủ một giấc đã.” Sau đó trở mình quay đi, không mở miệng nữa.
– Hết truyện –