“ Còn có chuyện như vậy sao” Võ Nguyên Hành nghe kể mà cực kỳ kinh ngạc. Hắn có chút ngượng ngùng, gãi gãi sau gáy: “ Trong văn thư của triều đình chẳng phải có ghi lại rằng, bệ hạ tiến vào chiếm được Võ Uy là do Vi Ngạc chủ động nhượng xuất hay sao? Sao lại có chuyện lén hạ Võ Uy trong bão tuyết là thế nào”
“ Vi Ngạc chủ động nhượng xuất Võ Uy” Vương Tư Vũ cười lạnh, lộ vẻ khinh thường: “ Thật nực cười, Vi Ngạc lúc bấy giờ chỉ hận là không băm thịt được chúng ta, chứ nói gì đến chuyện hắn tình nguyện dâng tặng Võ Uy cho hoàng thượng. Thôi! Nếu như trong văn thư của triều đình đã viết như vậy thì ta cũng không nói thêm gì nữa. Bất quá, ta chỉ nói thêm một điểm, trận chiến lần đó thật là gian khổ vô cùng, nếu như không thừa dịp đêm tối tuyết rơi mà đánh lén thì quả thật là chúng ta sẽ không thể nào mà hạ được Võ Uy”
Hai người Vương Tư Vũ và Võ Nguyên Hành vừa đi vừa nói chuyện. Lúc này bọn họ đã đến một trạm gác. Có mười mấy Đường quân bị gió tuyết thổi ngã, từ trên các tháp canh xuống đang được chữa trị tại đây: “ Thế nào rồi! Các huynh đệ ở đây cũng không sao chứ”
Đám lính nghe thấy có tiếng người nói nên đồng loạt quay đầu lại. Thấy chủ soái đích thân tới đây, bọn họ tự nhiên thấy có chút sợ hãi, rối rít hành lễ: “ Tham kiến đại soái”
Một gã đội trưởng bẩm báo với Vương Tư Vũ: “ Bẩm báo đại soái, có một huynh đệ đang làm nhiệm vụ trên tháp canh bị gió tuyết thổi mạnh quá nên bị ngã gãy chân, nên đã được đưa về Toái Diệp trị thương rồi. Trừ lần đó ra không còn có thêm huynh đệ nào thương vong nữa”
“ Không có thương vong là tốt rồi” Vương Tư Vũ gật đầu, tỏ ý hài lòng: “ Đại Thực quân ở bên kia có lẽ có tình huống phát sinh. Các ngươi hãy nói cho ta xem có phát hiện dị thường gì từ phía địch quân hay không”
Câu nói của Vương Tư Vũ như nhắc nhở viên đội trưởng, hắn ta nhớ ra điều gì đó, vội vàng gật đầu nói: “ Có! Chúng tiểu nhân có bắt được một gã hàng binh tới đây. Hắn là binh sĩ Bạt Hãn Na, là một tên lính trinh sát. Thừa dịp bão tuyết đã trốn tới đây để xin được đầu hàng Đường quân chúng ta”
“ A! Có chuyện như vậy sao” Vương Tư Vũ cảm thấy rất hứng thú, ông ta vội vàng hỏi: “ Tên hàng binh đó hiện tại ở chỗ nào, mau dẫn hắn tới gặp ta”
Tên đội trưởng vội vàng đứng dậy, hướng về phía chiếc lều ở xa xa mà chạy đi. Hắn lớn tiếng quát tháo mấy tiếng. Chốc lát sau có hai tên lính Đường quân dẫn theo một tên nam nhân tuổi chừng ba mươi mấy lại chỗ Vương Tư Vũ. Từ ngoại hình có thể đoán được hắn là người Đột Kỵ Thi. Tên lính bị bắt kia trông thấy Vương Tư Vũ liền quỳ rạp ngay xuống, hắn nói gì đó rất to nhưng bằng tiếng Đột Quyết. Một gã binh sĩ Đường quân gần đó có biết tiếng Đột Quyết nên làm người thông dịch: “ Bẩm tướng quân, hắn nói là bên phía Đại Thực quân hình như đang có nguy cơ thiếu hụt lương thực. Hàng ngày bọn hắn chỉ được ăn có một chút ít đồ ăn, hơn nữa A Lan lại không cho phép được giết ngựa, nên thật sự là bọn chúng đói không chịu được nữa. Cho nên tất cả đều suy đoán rằng có lẽ Bạt Hãn Na đã xảy ra chuyện gì đó chẳng lành. Hắn vì đói vì nhớ thương người nhà mà thừa lúc bão tuyết nên bỏ trốn khỏi quân doanh. Hắn nói hắn không muốn đánh trận nữa.”
Vương Tư Vũ trầm ngâm trong chốc lát, ông ta nói với người lính thông dịch: “ Ngươi hãy hỏi hắn xem, trong Đại Thực quân có tất cả là bao nhiêu người Bạt Hãn Na giống như hắn”
Người lính thông dịch dùng tiến Đột Quyết hỏi tên hàng binh kia mấy câu, sau khi hắn trả lời, người lính ấy liền thuật lại với Vương Tư Vũ: “ Bẩm tướng quân, hắn có hơn bốn ngàn người, hiện bọn họ cũng ở cách nơi này không xa lắm chỉ khoảng bốn năm dặm thôi. Cùng ở chung một chỗ với họ còn có người của Thạch quốc, Sử quốc” . Vương Tư Vũ nghe xong trầm ngâm không nói lời nào. Từ những lời khai của tên hàng binh nãy giờ, ông ta có thể đi đến nhận định, đó là lương thảo của địch quân không còn nhiều nữa rồi. Trong tình hình như vậy, chủ soái của Đại Thực dĩ nhiên có sự phân biệt đối xử, bên trọng bên khinh đối với các đơn vị quân đội. Và dĩ nhiên từ hành động này của ông ta, khiến cho binh sĩ của các nước cùng Đại Thực tham chiến bắt đầu cảm thấy bất mãn. Và nếu như những lời khai báo của tên hàng binh này là sự thật thì Vương Tư Vũ đang có cơ hội để phân hóa địch quân. Nhưng để thực hiện được nó thì vô cùng khó khăn. Phải làm như thế nào để cho những người Bạt Hãn Na khác biết tin tức đây”
Vương Tư Vũ liếc mắt nhìn về phía tên hàng binh người Bạt Hãn Na kia, rồi hướng tên binh lính thông dịch nói: “ Ngươi hãy nói cho hắn biết, nếu như hắn tình nguyện trở về để thay ta truyền tin tức, thì sau khi chiến tranh kết thúc ta sẽ thưởng cho hắn một ngàn đầu dê và mười con ngựa. Ngươi hỏi xem hắn có đồng ý làm như thế không”
Tên binh lính Đường quân lại phiên dịch những lời của chủ soái Vương Tư Vũ cho tên hàng binh kia nghe. Hắn nghe đến đâu mắt sáng lên đến đấy, gật đầu lia lịa. Và không cần tên lính thông dịch kia nói lại Vương Tư Vũ cũng hiểu rằng, tên hàng binh kia đã đồng ý. Ông ta khẽ gật đầu, sau đó còn dặn dò hắn mấy câu rồi mới sai người thả cho hắn đi. Tên hàng binh người Bạt Hãn Na kia, được cởi trói, bước thấp bước cao từ từ đi về phía nam. Thân ảnh của hắn dần biến mất trong rừng cây.
Lúc này, Võ Nguyên Hành đi tới gần Vương Tư Vũ nói: “ Đaị soái, tôi cho rằng nếu chỉ dựa vào tên này, sợ rằng khó có thể đạt được kết quả mà đại soái mong muốn. Chúng ta nên phái thêm người cho viết và sao chép các truyền thư bằng tiếng Đột Quyết. Nói rõ cho bọn chúng biết rằng nếu như lập tức đầu hàng Đại Đường thì sẽ được cấp lương thực và thả cho về nhà. Ngược lại nếu còn ngoan cố chống đối thì sau khi chiến trận kết thúc, sẽ bị bắt đi làm đầy tớ khổ sai ở mỏ bạc Toái Diệp trong vòng hai mươi năm. Một khi chúng ta gửi truyền thư dụ hàng tới địch quân, tôi nghĩ rằng bọn chúng sẽ không thể nào cưỡng lại được, giống như chim đói sao bỏ qua được độc xà. Nhất định là sẽ có không ít người ngoan ngoãn ra đầu hàng chúng ta”
Vương Tư Vũ gật đầu liên tục tán đồng: “ Lời đề nghị của ngài rất hay, lát trở về ta sẽ cho người viết và sao chép truyền thư. Nhưng còn dùng biện pháp nào để chuyển truyền thư tới địch quân cũng là một vấn đề, ta phải suy nghĩ một chút đã”
Võ Nguyên Hành ngẩng đầu lên bầu trời, xác định hướng gió. Hắn khẽ mỉm cười nói: “ Đại soái không cần lo lắng, tôi đã nghĩ ra một biện pháp rất hay”
Đêm xuống, hai ngàn Đường quân rối rít đem hơn năm trăm cái đèn trời ra đặt ở trên mặt tuyết, mỗi cái cao chừng một trượng. Đèn trời này được Gia Cát Lượng thời tam quốc sáng chế ra nên nó còn có tên khác là đèn Khổng Minh. Nhìn về tổng thể, những cái đèn này có hình dáng như một cái thùng gỗ tròn. Miệng đèn là một thanh tre được làm như cạp rổ và được dùng làm khuôn để phất giấy. Giấy phất đèn được làm bằng giấy bản để có độ bền dai và chịu được sức gió.Đường quân cứ hai người làm một tổ, hai người một trái một phải nâng cao chiếc đèn, rồi lại có một người khác châm lửa đốt con bấc lớn ở phía dưới chỗ gần miệng của đèn. “ Bùng” Một ngọn lửa được bùng lên, người ta có thể nhìn thấy một cái hộp đựng đầy dầu hỏa để duy trì thời gian cháy, giúp đèn có thể bay được lâu. Phía bên dưới cái hộp dầu là một chiếc giỏ trúc, bên trong có truyền thư được viết bằng chữ Đột Quyết và chứ Túc Đặc. Khi hộp dầu được đốt cháy, hơi nóng làm cho chiếc đèn từ từ căng phồng và được đẩy dần lên, hai tên lính liền buông tay và thế là chiêc đèn cứ thế bốc dần lên cao. Cuối cùng khi lên tới độ cao chừng hai trượng, thì những chiếc đèn trời này với những chiếc giỏ đừng truyền thư đang đung đưa được gió bắc thổi hướng về phía trận địa của Đại Thực quân. Hơn năm trăm chiếc đèn Khổng Minh giăng đầy trên bầu trời, giống như đom đóm bay đầy trời đêm mùa hè. Chúng làm cho không gian vô cùng quỷ dị khiến cho người ta chói cả mắt.
Hiện nay Đại Thực quân đang bị vây khốn trong một tòa thành trì, đó là Bùi La tướng quân thành. Đây chính là một tòa vệ thành của Toái Diệp. Tuy nói là vệ thành nhưng tòa thành trì này cũng không phải là nhỏ. Nó có đủ sức chứa cho một vạn quân trú đóng và mấy ngàn hộ dân sinh sống bình thường. Thậm chí Bùi la tướng quân thành còn có thể dung nạp được ba vạn quân đội. Về tình hình Đại Thực quân tại Bùi La tướng quân thành hiện nay thì có hơn hai vạn Hô La San quân trú đóng ở bên trong thành, bọn họ được cung cấp đầy đủ lương thảo. Còn ở bên ngoài thành là gần ba vạn quân Ai Cập và hơn một vạn quân Đột Quyết. Bọn họ bị cắt giảm một nửa khẩu phần ăn so với trước đây. Tệ hơn nữa là những người của Khang quốc, Thạch quốc, An quốc ở vòng ngoài cùng… Số quân của các tiểu quốc này lên tới sáu vạn, nhưng lại là những đơn vị có địa vị thấp kém nhất, trang bị sơ sài nhất, sức chiến đấu yếu nhất và dĩ nhiên là chế độ đãi ngộ cũng thấp nhất. Mỗi ngày bọn họ chỉ được ăn có một bữa. Hơn nữa thống soái tối cao lại còn ra lệnh cấm giết thịt chiến mã, nếu ai trái lệnh thì sẽ bị cực hình