Bệnh tình của Cố Minh Tịch đã khả quan hơn nhiều, anh tiễn Bàng Sảnh ra ngoài bắt taxi. Sau khi rời khỏi khu nhà, hai người thả bước dọc theo con đường trên phố.
Thời tiết tháng Hai ở Hải Nam rất dễ chịu, bầu trời tối dần, vầng mặt trời nóng rực dần bị che khuất, mặt trăng nhô lên mặt biển, xấu hổ nhìn ngắm đôi bạn trẻ.
Đứng trên con đường dễ bắt taxi, Bàng Sảnh và Cố Minh Tịch quấn quýt thủ thỉ những lời tình tứ ngọt ngào. Cô dặn anh nhớ uống thuốc đúng giờ, uống nhiều nước nghỉ ngơi nhiều, Cố Minh Tịch chỉ mỉm cười thay lời đáp. Thấy sắp phải đi, Bàng Sảnh bất ngờ nhắc đến một việc quan trọng: “Đúng rồi, chuyện lần trước em nói anh nghĩ đến đâu rồi?”
Tất nhiên Cố Minh Tịch hiểu cô đang nhắc tới việc gì, chính là câu chuyện có nên tiếp tục học tập hay không. Từ hôm đó tới giờ học không nhắc lại chuyện này, lý do là vì Bàng Sảnh muốn cho Cố Minh Tịch thêm thời gian suy nghĩ. Cố Minh Tịch cúi xuống nhìn Bàng Sảnh rồi nói: “Bàng Bàng, em đã nghĩ kỹ chưa? Công việc hiện tại của em không tồi, tiền lương cao, nếu xin nghỉ để đi học thì thế nào cũng phải mất tới ba, bốn năm. Em thấy có đáng không?”
“Chẳng lẽ anh thấy không đáng sao?” Bàng Sảnh trợn mắt nhìn anh, lặp lại câu hỏi lần nữa: “Cố Minh Tịch, anh thấy không đáng sao?”
“Không, anh không thấy vậy.” Bị ánh mắt cô uy hiếp, anh chậm rãi lắc đầu.
“Em biết đó là một giấc mơ trong lòng anh.” Bàng Sảnh nói, “Dù xuất phát từ lý do nào đi nữa: để phát triển công việc sau này hay vì lòng tin cho chính mình, để trở thành tấm gương cho bọn trẻ, thậm chí một lý do tầm thường hơn là để chuyển sang một công việc mới với mức lương tốt hơn thì cả anh và em đều nên học tiếp.”
Anh im lặng hồi lâu rồi nói: “Anh không biết mình còn có thể học lại các môn văn hoá được không?”
Bàng Sảnh cười: “Không sao, cũng đã lâu rồi em không động tới những cuốn sách chuyên ngành đó, dù chỉ thi nghiên cứu sinh nhưng em cũng muốn thi được điểm cao. Tới lúc đó chúng ta sẽ cùng ôn luyện, cùng lắm thì đi học thêm vậy.”
Anh thấy buồn cười trước giọng điệu thoải mái của cô, bèn hỏi: “Đến lúc đó chẳng may em đỗ mà anh trượt thì sao?”
Bàng Sảnh trả lời không mảy may nghĩ ngợi: “Thì anh vừa vẽ vừa ôn lại năm nữa.”
Cố Minh Tịch chau mày, “Có phải em chê anh không có bằng cấp không?”
Bàng Sảnh cười khanh khách hồi lâu, đập tay lên người anh: “Nếu anh thực sự không muốn học, em sẽ không bao giờ bắt ép anh. Nhưng em biết anh muốn học mà.”
Thấy nét mặt thoáng đăm chiêu của Cố Minh Tịch, cô đặt túi du lịch xuống đất, giang rộng hai tay ôm lấy anh, cô bảo: “Nếu em trượt mà anh đỗ, vậy em sẽ đi làm chu cấp tiền cho anh học. Còn nếu anh trượt mà em đỗ, em sẽ tôn trọng ý kiến của anh, anh có thể học tiếp hoặc trở thành một hoạ sĩ truyện tranh tự do, bán sách nuôi em học. Tóm lại mọi thứ chúng ta cứ để chúng thuận theo tự nhiên, đừng miễn cưỡng điều gì. Được không anh?”
Cố Minh Tịch: “…”
“Người Maya tiên đoán 2012 là năm tận thế. Cố Minh Tịch, sang năm chúng ta về ở bên nhau nhé?”
“…”
Cô ngước lên nhìn anh: “Có được hay không anh cũng nói một tiếng đi chứ.”
Anh chưa bao giờ là một người hứa suông, không biết nói những lời ngon ngọt, anh lúc nào cũng nói đi đôi với làm. Đối diện với ánh mắt mong mỏi của Bàng Sảnh, anh biết nếu như đồng ý thì trong hơn một năm tới đây, anh chỉ có thể cố gắng hết sức mà thôi.
Anh vẫn chưa hết do dự lại bị Bàng Sảnh đẩy mạnh một cái: “Cố Minh Tịch, em nghĩ rồi. Sang năm khi nào anh nhận được giấy báo trúng tuyển, bọn mình sẽ đi đăng ký kết hôn để chúc mừng. Ok không?”
Cố Minh Tịch lại suy nghĩ sâu xa hơn. Vậy nếu nói ngược lại chẳng phải giả sử năm sau không đỗ thì anh sẽ không có vợ hay sao?
Coi như em giỏi!
Anh nghiến răng đồng ý: “Được, anh đồng ý sang năm sẽ đăng ký thi đại học!”
***
Tháng ba Bàng Sảnh nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà đất và chìa khoá căn hộ. Cô rất mừng liền đi một mình tới thăm nhà mới rồi gọi điện cho Cố Minh Tịch hỏi chuyện tân trang. Cố Minh Tịch áy náy nói: “Bàng Bàng, tiền nhuận bút của anh chắc phải tháng tám mới có. Bây giờ chưa có ngay được tiền tân trang nhà cửa.”
Bàng Sảnh bần thần rồi kêu lên: “Ai bắt anh phải bỏ tiền tân trang chứ?”
Hai người bàn bạc rồi thống nhất là đồ đạc và đồ điện nước sẽ chờ Cố Minh Tịch về cùng chọn mua, những trang trí cần thiết và lắp đặt đường điện nước trong nhà sẽ tiến hành làm trước. Còn về phong cách… Cố Minh Tịch không có ý kiến, chỉ nói với Bàng Sảnh: “Miễn em thích là được.”
Bàng Sảnh tranh thủ thời gian đến giãi bày với Trâu Lập Văn. Cô mời anh ta ở lại ăn tối sau giờ làm việc.
Trâu Lập Văn là thạc sĩ tài chính tại đại học Phục Đán. Sau khi nói với nhau dăm ba câu chuyện, Bàng Sảnh liền kéo chủ đề tới việc học nghiên cứu sinh chuyên ngành tài chính ở hai trường là Phục Đán và Đại Học tài chính kính tế Thượng Hải, cô hỏi Trâu Lập Văn trường nào dễ đỗ hơn.
Trâu Lập Văn là người rất nhạy bén. Anh ta liếc nhìn Bàng Sảnh rồi hỏi: “Sao? Em định đi học à?”
“Vâng.” Bàng Sảnh cầm khăn lau miệng, “Thưa sếp, hôm nay hẹn anh đi ăn chính là để báo cáo với anh em chỉ định làm việc tới cuối tháng 6, cùng lắm là tới cuối tháng 7 sau đó sẽ xin nghỉ nửa năm để ôn tập và tranh thủ đi thi cho xong ạ.”
Cô không giấu giếm suy nghĩ của bản thân và cũng không cho Trâu Lập Văn giữ mình lại. Thực tế là Trâu Lập Văn rất hiểu Bàng Sảnh nên bản thân anh ta cũng chẳng có ý giữ cô lại.
Vừa cắt bò bít tết anh ta vừa đưa ra ý kiến: “Xét về vấn đề thi khó hay dễ, hai trường này tương đương nhau. Về danh tiếng thì Phục Đán nhỉnh hơn. Về tiếng tăm trong ngành, Đại học Tài chính kinh tế Thượng Hải lại hơn. Em là sinh viên Tài chính kinh tế Thượng Hải, nếu thi tài chính kế toán sẽ chắc chắn hơn một chút.”
Bàng Sảnh nói: “Sếp không biết đâu, em có tình cảm đặc biệt với Phục Đán.”
Trâu Lập Văn hỏi: “Thế sao ngày xưa không thi vào đại học Phục Đán?”
“Vì hồi đó em không thể đỗ!” Bàng Sảnh cười nói: “Nhưng giờ lại cảm thấy mình cách Phục Đán rất gần.”
“Em học đại học ở Tài chính kinh tế Thượng Hải, nếu lại tốt nghiệp nghiên cứu sinh ở Phục Đán thì sau này không phải lo về vấn đề tìm việc làm. Huống hồ em còn có bốn năm kinh nghiệm đi làm.” Trâu Lập Văn nở nụ cười hiếm hoi: “Bàng Sảnh, nói không chừng đến lúc đó anh muốn mời em về giúp mình em cũng không thèm ấy chứ.”
“Sao có thể như vậy được ạ!” Bàng Sảnh nịnh bợ ngọt xớt: “Em có được ngày hôm nay đều nhờ vào con mắt tinh tường của sếp! Sếp cứ yên tâm! Khi nào học xong em nhất định trở về gặp sếp, lúc đó sếp ăn thịt em ăn thịt, sếp húp cháo em húp cháo…”
“Thôi thôi được rồi…” Đầu Trâu Lập Văn phình ra: “Nói về chuyện em với bạn trai xem nào.”
Bàng Sảnh bẽn lẽn mỉm cười: “Bọn em vẫn bình thường ạ.”
“Có ý định kết hôn chưa?”
“Dạ, sang năm ạ. Nhà cửa xong rồi, nhưng anh ấy định học tiếp, em đã hẹn anh ấy sang năm khi nào cả hai đứa thi xong thì kết hôn.” Bàng Sảnh bưng cốc nước lên uống.
Trâu Lập Văn nghiêm túc nói: “Tranh thủ ba năm đi học nhớ sinh con luôn đấy!”
“Phụt…” Ngụm nước trong miệng Bàng Sảnh phun hết ra ngoài.
Trong kỳ nghỉ tiết Thanh minh, Cố Minh Tịch gửi gắm Đậu Đậu cho cô Kỷ và thầy Trần hai ngày, còn mình với Bàng Sảnh thì về tỉnh Z tảo mộ.
Hai người tụ họp ở sân bay thành phố S. Bàng Sảnh đến sớm chờ ở cửa ra. Hai tiếng sau Cố Minh Tịch đeo ba lô đi vào.
Hai người đã hơn một tháng không gặp nên nhớ nhung là điều khó tránh khỏi. Vừa được gặp nhau đã biến thành một cặp đôi sơ sinh, lúc nào cũng quấn quýt.
Trên đường đi xe khách tới tỉnh Z, Bàng Sảnh lấy Ipad cho Cố Minh Tịch xem ảnh ngôi nhà đang trang trí. Bình thường chat trên mạng cô cũng cho anh xem vài tấm hình nhưng lần này gặp nhau, cô chụp từng ngóc ngách trong nhà một cách chi tiết nhất có thể, sau đó cho Cố Minh Tịch xem từng tấm một.
“Em làm bệ bếp, chậu rửa, lavabo thấp hơn một chút để anh tiện sử dụng.” Bàng Sảnh cất giọng kể lể làm Cố Minh Tịch phải bĩu môi: “Ý em là sau này em sẽ không bao giờ chịu vào bếp?”
Bàng Sảnh đỏ mặt: “Không phải không phải, em lùn nên vẫn có thể dùng bình thường.”
Cố Minh Tịch mỉm cười đặt trán mình lên trán cô: “Anh đùa thôi, sau này việc nấu nướng cứ giao cho anh. Anh thích ngắm em ăn đồ anh nấu.”
Trái tim Bàng Sảnh ngọt như ngâm đường, tiếp tục cho anh xem ảnh: “Căn phòng hướng nam này em định để cho anh làm phòng vẽ tranh, lúc đó sẽ đặt riêng bàn làm việc và giá sách được không?”
Cố Minh Tịch cúi xuống nhìn một lát rồi nói: “Anh định để phòng này cho em bé.”
“Em bé có phòng khác mà, cũng rộng như thế.”
Anh mím môi nghĩ ngợi rồi nói: “Ừm, sau này em bé lớn, nếu nó thích sáng sủa thì anh sẽ đổi lại là được.”
Bàng Sảnh hiểu sở thích của Cố Minh Tịch hơn ai hết, vì vậy Cố Minh Tịch hoàn toàn yên tâm khi giao căn phòng để cô trang trí. Cô bảo dự định quét sơn màu vàng cho phòng ngủ chính, sàn nhà màu xám đậm, đều là những gam màu ấm. Phòng khách thì sơn màu lam nhạt, sàn gỗ màu vàng, thiên về tông lạnh. “Nếu thấy chưa đủ ấm cúng thì lắp thêm đèn.” Bàng Sảnh cho Cố Minh Tịch xem mấy phòng mẫu: “Kiểu lượn sóng như ở biển ấy, lắp thêm mấy bóng đèn LED, anh thấy sao?”
Cố Minh Tịch không khỏi gật đầu, cất giọng thật khẽ: “Bàng Bàng, đây có thật là nhà của chúng ta không?”
“Dĩ nhiên!” Bàng Sảnh cười rạng rỡ: “Không biết là con trai hay con gái nên em chưa dám sơn màu hồng cho căn phòng này.”
Cố Minh Tịch hỏi: “Em thích con gái hả?”
“Vâng, con gái là áo bông của mẹ mà.” Bàng Sảnh ngả lên vai anh, hỏi: “Còn anh? Anh thích trai hay gái?”
“Anh thích con trai.” Cố Minh Tịch nói.
“…” Bàng Sảnh có hơi ngạc nhiên. Cô nghĩ anh sẽ bảo nam nữ gì cũng thích nên mới hỏi: “Tại sao?”
Cố Minh Tịch chân thành trả lời: “Có hai nguyên nhân. Một là anh sợ có con gái sẽ nuông chiều làm nó hư. Hai là… Không biết em đã nghe chuyện này chưa, nghe ta nói người lớn có con sẽ lại một lần nữa được trở về tuổi thơ thông qua việc nuôi dạy con trẻ, nhất là những thứ mà người lớn trước đây không có được thì đều muốn con cái hiện thực hoá thay mình. Anh thấy điều này khá có lý. Chẳng hạn như anh, nếu có con, anh sẽ thương yêu nó, bầu bạn bên nó, dạy dỗ và cả… tôn trọng nó nữa. Anh muốn dạy con trở thành một người đàn ông chân chính: tốt bụng, nghĩa khí, biết trách nhiệm và cầu tiến. Anh hy vọng nó có thể làm được những gì anh chưa làm tốt.”
Bàng Sảnh cảm động vô cùng, cô ôm chầm lấy anh và nói: “Anh đã làm rất tốt rồi Cố Minh Tịch ạ. Em nói thật đó!”
Xe tới tới tỉnh Z, Cố Minh Tịch và Bàng Sảnh đi taxi tới nghĩa trang công cộng.
Trong tiết thanh minh nghĩa trang khá đông đúc. Cố Minh Tịch tìm được phần mộ của Lý Hàm, trước mộ có nhang và nến, chắc là Lý Thuần hoặc Lý Mục vừa tới. Bàng Sảnh đặt hoa xuống rồi đốt nến thắp hương theo phong tục, và đốt thêm chút vàng mã.
Cố Minh Tịch đứng bên cạnh lẳng lặng nhìn cô thu xếp tất cả các công việc.
Bàng Sảnh đốt sáu nén hương, quỳ xuống trước mộ Lý Hàm. Cô ngước lên nhìn bia mộ, trên đó là bức ảnh của Lý Hàm hồi bà khoảng 40 tuổi. Khi đó bà rất đẹp, mái tóc dài bện lại đặt trước ngực, đôi mắt vừa to vừa sáng trắng đen rõ ràng, nụ cười bình yên và ấm áp.
Bàng Sảnh dập đầu trước mộ Lý Hàm ba cái, cắm hương vào bát hương rồi nói: “Bác ơi, cháu là Sảnh Sảnh đây ạ, cháu đến thăm bác. Bây giờ cháu và anh Cố Minh Tịch đang yêu nhau, bác cứ yên tâm, cháu sẽ không bao giờ để anh ấy phải cô đơn nữa.”
Cô đứng dậy còn Cố Minh Tịch thì bước tới đứng trước bia mộ rồi chầm chậm quỳ xuống. Anh chỉ cất tiếng gọi: “Mẹ ơi…” rồi giọng nghẹn lại.
Bàng Sảnh đứng ngay bên cạnh liền giang tay ôm lấy anh. Cô biết mấy năm nay Cố Minh Tịch đã phải chịu rất nhiều nỗi đắng cay khổ sở nhưng chẳng khi nào anh chịu sẻ chia với cô. Nhưng giờ đây khi đối diện với Lý Hàm, chắc chắn anh đang nhớ lại những tháng ngày đã qua đó. Dù có mạnh mẽ tới đâu anh cũng chỉ có một thân một mình, lại còn là một người tàn tật yếu thế hơn người bình thường không biết bao nhiêu lần. Bất kể giây phút nào anh cũng có thể gặp phải những khó khăn khó giải quyết, có lúc cẩn thận nghĩ tới đây Bàng Sảnh thậm chí không dám nghĩ tiếp. Lý Hàm đã mất được gần năm năm, năm năm! Cố Minh Tịch chỉ có một mình!
Nhưng giờ đây mọi thứ đã tốt đẹp, Bàng Sảnh có thể hiểu được tâm trạng phấp phổng của Cố Minh Tịch. Cô cũng quỳ xuống ôm lấy bờ vai run rẩy của anh, thì thầm an ủi khe khẽ: “Được rồi, được rồi, không sao đâu, bác thấy anh khóc như vậy sẽ lo lắng lắm. Bây giờ cuộc sống của bọn mình đã trở nên tốt đẹp rồi, anh đừng khóc nữa…”
Trong nghĩa trang sương khói mờ mịt, mùi hương mùi nến nồng đượm. Một cơn gió mùa xuân vừa thổi qua đã khiến tán cây tùng bách bên mộ xào xạc rung chuyển.
Bàng Sảnh ôm chặt Cố Minh Tịch, cuối cùng cô ngước lên nhìn trời: “Thôi, dù sao ở đây cũng chỉ có hai chúng ta, anh muốn khóc thì cứ khóc đi. Nhưng nói thật em nghĩ bác Hàm chắc đang cười anh đó, mang bạn gái đến gặp mẹ mà lại khóc như mưa thế này.”
…
Ra khỏi nghĩa trang, Cố Minh Tịch liền gọi điện cho Lý Thuần.
Năm đó sau khi Lý Hàm qua đời, Cố Minh Tịch và người nhà họ Lý cũng chẳng vui vẻ gì bởi anh nhất quyết bán nhà để trả tiền cho mọi người trong khi Lý Mục lại không thể hiểu nổi hành động đó. Lý Mục cho rằng số tiền mọi người thăm nom khi Lý Hàm bị bệnh không cần phải trả, đây là chuyện tập tục xưa nay vẫn vậy. Ông ta mong Cố Minh Tịch không bán nhà mà cho thuê để sau này Lý Thế Vũ trưởng thành lấy vợ có thể mượn nó để ở.
Cố Minh Tịch hoàn toàn không cân nhắc đến ý kiến của ông cậu. Dưới sự giúp đỡ của Từ Song Hoa và Cá Mập, anh dứt khoát bán nhà. Lý Mục tuyên bố từ giờ trở đi gia đình ông và Cố Minh Tịch hoàn toàn không có bất cứ quan hệ nào nữa. Nếu Cố Minh Tịch có tới tỉnh Z cũng đừng tới ở nhờ nhà ông ta.
Khi rời khỏi tỉnh Z chỉ có duy nhất Lý Thuần đến tiễn Cố Minh Tịch. Lý Thuần cho anh ba mươi triệu, dặn đi dặn lại anh không phải trả. Sau đó Cố Minh Tịch và Lý Thuần giữ liên lạc, lễ tết anh đều gọi điện hỏi thăm và hàng năm gửi cho bà mười triệu, nói là tiền để bà tẩm bổ sức khoẻ và gửi cho Lý Thuần rất nhiều đặc sản Hải Nam.
Nhận được điện thoại của Cố Minh Tịch Lý Thuần rất vui, nói chuyện với anh thật lâu. Cố Minh Tịch biết sức khoẻ ông bà ngoại ngày càng suy sụp, Lý Thế Vũ đòi lấy vợ, không còn phòng nên Lý Mục đã đưa bố mẹ già tới viện dưỡng lão còn mình và Hoàng Linh Lị phải đi thuê một nhà trọ nhỏ để lại căn nhà kia cho Lý Thế Vũ.
“Tiểu Vũ bị cậu mợ cháu nuông chiều quá sinh hư!” Lý Thuần nói: “Học hành không ra sao, chẳng chịu đi tìm việc, suốt ngày chỉ lên mạng chơi game, cuối cùng quen một đứa con gái cũng qua game rồi đòi lấy vợ. Con bé kia lớn hơn nó một tuổi, nghe nói còn chưa tốt nghiệp cấp ba, làm công nhân bình thường nhưng ngày nào cũng chơi game, hết tiền lại ngửa tay xin cậu cháu. Thương cho cậu cháu đã 50 tuổi mà còn phải đi làm bảo vệ ca đêm, haizz..”
Cúp máy Bàng Sảnh hỏi Cố Minh Tịch: “Anh có muốn đi gặp ông bà ngoại và cậu anh không?”
Cố Minh Tịch lắc đầu nói: “Bàng Bàng, đây không phải là nơi anh lớn lên, em hiểu chứ?”
Cô thoáng ngẫm nghĩ rồi gật đầu: “Em hiểu.”
Họ đi xe quay lại thành phố S, định tối nay ở lại đó nghỉ ngơi rồi đáp chuyến bay sáng mai.
Buổi tối Cố Minh Tịch dẫn Bàng Sảnh tới thăm Từ Song Hoa.
Hầu như cả năm Từ Song Hoa đều ở nước ngoài, thậm chí tết âm lịch cũng muốn bay sang Anh thăm con trai. Nhưng dịp thanh minh nào ông cũng phải về thnàh phố S.
Cố Minh Tịch đã gọi trước cho Từ Song Hoa. Đến cửa nhà ông, Cố Minh Tịch nói với Bàng Sảnh: “Anh đã ở nơi này trong vòng một năm rưỡi sau khi mẹ anh mất.”
Cửa mở. Từ Song Hoa vẫn vậy với một gương mặt nhạt nhoà, nét mặt không thể hiện cảm xúc buồn vui nhưng vừa trông thấy Cố Minh Tịch, ông vẫn bất giác tỏ vẻ dịu dàng, bước tới nhẹ nhàng ôm cậu.
Dường như mọi người đều biết hễ khi nào gặp Cố Minh Tịch, chỉ cần dành cho anh một cái ôm là ấm áp nhất.
Cố Minh Tịch mang trà búp Minh Tiền từ thành phố E tới cho Từ Song Hoa khiến ông rất thích thú. Thấy Bàng Sảnh, ông không khỏi tò mò.
Cố Minh Tịch thẹn thùng giới thiệu: “Thầy ơi, đây là Bàng Sảnh – bạn gái của em.”
Từ Song Hoa giữ hai người ở lại ăn tối. Ăn xong Cố Minh Tịch bảo Bàng Sảnh ra phòng khách xem tivi còn anh và thầy Từ vào phòng sách trao đổi một lát. Cố Minh Tịch muốn tâm sự với thầy về việc thi đại học.
Nghe xong kế hoạch của anh Từ Song Hoa không mảy may tỏ ra ngạc nhiên mà chỉ gật gù nói: “Học tiếp cũng là một ý tưởng hay. Sự học là trọn đời, thầy ủng hộ em.”
Cố Minh Tịch nói: “Thưa thầy, lần này em muốn thi ngành thiết kế mỹ thuật. Điểm văn hoá của chuyên ngành mỹ thuật thường không quá cao, cũng dễ cho em ôn tập.”
Từ Song Hoa hỏi: “Đã có mục tiêu là trường nào chưa?”
“Em muốn đi Thượng Hải. Thầy gợi ý cho em được không ạ?”
“Thượng Hải?” Từ Song Hoa ngẫm nghĩ: “Em có biết học viện Nghệ thuật thị giác của trường đại học Phục Đán ở Thượng Hải chưa?”
Cố Minh Tịch gật đầu: “Dạ, em đã từng nghiên cứu trường này.”
“Thầy có bạn dạy học ở đó, trường này khá được. Nếu sau này em vẫn muốn tiếp tục làm giáo viên, thầy gợi ý em nên thi vào chuyên ngành Hội hoạ của khoa Mỹ thuật tạo hình. Em có căn bản, chỉ cần trau dồi thêm nửa năm chắc chắn không vấn đề gì. Còn về các môn văn hoá thì phải dựa vào thực lực của em rồi.”
Cố Minh Tịch gật đầu: “Em nhớ rồi ạ.”
Từ Song Hoa hỏi về dự định tiếp theo của Cố Minh Tịch. Biết anh sẽ trở về thành phố E vào tháng bảy, ông lập tức gọi điện cho một người bạn ở thành phố E ngay trước mặt cậu học trò.
“Tôi có một học trò sang năm muốn thi vào khoa Mỹ thuật tạo hình của học viện Nghệ thuật thị giác Thượng Hải theo hệ chính quy, đầu tháng bảy tới thành phố E… Hộ khẩu ở thành phố E, đúng rồi, muốn nhờ ông hỗ trợ nó về chuyên ngành. Ông cứ yên tâm với căn bản của nó, tôi mong ông dạy nó một thầy một trò, phải đảm bảo nó đỗ được Nghệ thuật thị giác… Phải, đúng rồi, nó là học trò của tôi, người học trò thứ tư.”
Cúp máy Từ Song Hoa chuyển số máy người này vào điện thoại của Cố Minh Tịch rồi nói: “Thầy giáo này có mở một lớp học chuyên dạy thêm cho những đối tượng muốn dự thi các ngành Mỹ thuật tạo hình, trình độ ông ấy rất cao. Lúc nào về thành phố E, em nhớ gọi điện cho thầy, thầy sẽ tới gặp trực tiếp người này cùng em. Cứ yên tâm, ông ấy là một người rất thú vị.”
Khi bước ra từ phòng làm việc, cả Từ Song Hoa lẫn Cố Minh Tịch đều mỉm cười. Bàng Sảnh đứng dậy. Từ Song Hoa nhìn đôi bạn trẻ rồi nói: “Minh Tịch bao giờ kết hôn nhớ mời thầy tới dự lễ cưới. Mấy năm nay thầy nhớ em hơn cả nhớ con trai mình. Thấy em bây giờ sống tốt thầy mừng lắm!”
Ông là một người không quá tình cảm nhưng giờ đây lại nói ra những lời thân tình như vậy khiến Cố Minh Tịch thực sự ngạc nhiên. Anh chủ động ghé sát người về phía Từ Song Hoa và nói: “Em cảm ơn thầy ạ!”
Khách sạn Cố Minh Tịch và Bàng Sảnh ở nằm giữa trung tâm thành phố. Sau khi ra khỏi taxi, Cố Minh Tịch ngước lên và nhìn thấy chiếc cầu vượt hình chữ I cách đó không xa.
Anh không nói gì với Bàng Sảnh, chỉ dẫn cô đi một vòng trên cầu.
Mặc dù đang là buổi tối nhưng trên cầu vẫn rất đông đúc, người mở hàng, người diễn xiếc, người ăn xin xếp thành một hàng dài. Những toà cao ốc xung quanh đèn đuốc sáng trưng, mái nhà lấp lánh muôn vàn màu sắc, dòng xe dưới chân cầu nối đuôi thành một dải màu vàng thật dài. Những người bộ hành đi qua Cố Minh Tịch hầu như không chú ý, chỉ một số ít người tò mò về ống tay áo của anh và cô gái trẻ đẹp đi bên cạnh, vẻ khó tin sẽ xuất hiện. Cố Minh Tịch hoàn toàn không bận tâm, anh đi thật chậm. Bàng Sảnh không hiểu ngọn ngành bèn hỏi nhưng Cố Minh Tịch không đáp.
Trong lòng ai cũng có bí mật, lúc này Cố Minh Tịch không muốn kể cho Bàng Sảnh nghe về những tháng ngày đó. Anh nghĩ có lẽ vài năm nữa, khi hai người đã kết hôn, trong một buổi tối mùa đông ngồi xem tivi trong căn phòng ấm cúng sẽ nói lại câu chuyện trên cầu hôm nay cho cô nghe bằng giọng bông đùa.
Sau khi về tới phòng khách sạn hai người đều mệt nhoài. Sau một ngày tàu xe, cuối cùng cũng được nghỉ ngơi.
Đóng cửa bỏ túi xách xuống Bàng Sảnh không ngơi nghỉ vội vàng cởi áo khoác cho cả mình lẫn Cố Minh Tịch, sau đó người cô đã dán chặt lên cơ thể anh.
Cô ngước lên anh cúi xuống, hai đôi môi liền hoà quyện.
Cô và anh loạng choạng tới gần nhà vệ sinh: “Tắm chung đi…”
Anh không muốn rời khỏi đôi môi cô, chỉ khẽ đáp: “Ừ.”
Giọng cô mềm như nước, hai tay chuyển động trên cơ thể anh. “Cố Minh Tịch, em nhớ anh rất nhiều!”
“Anh cũng nhớ em.”
“Nhớ thế nào?”
“Lúc tỉnh trong đầu chỉ có em. Lúc ngủ trong mơ chỉ có em.”
“Em cũng thế! Em cũng thế!” Cô ríu rít nói, còn dùng đầu lưỡi ranh mãnh đánh qua hai chiếc răng khểnh của anh, nhọn nhọn, đúng là vừa gợi cảm vừa thú vị.
Sự khiêu khích đó của cô khiến nụ hôn của anh càng trở nên nồng nàn như lửa. Không kiềm chế được nữa, anh hôn cô thật sâu, hàng lông mày rậm chau lại, luôn miệng gọi tên cô: “Bàng Bàng, Bàng Bàng…”
“Em đây.” Cô nói.
Bóng đêm phủ kín, từ nhà vệ sinh đến đệm giường trắng phau đều lưu giữ hình bóng quấn quýt mãnh liệt của hai người.