“Thẩm vấn là dành cho tà ma, thế mà ngươi tự áp lên bản thân mình?” Vành môi chàng tái mét, nét mặt sầm hẳn đi.
Xưa kia, đám tà ma lớn nhỏ trong Chiếu Dạ thành đều nói ngay cả lúc tức giận thành chủ vẫn luôn giữ nụ cười, một khi trên mặt chàng vơi đi nét cười thì chẳng còn một ai dám đến gần.
Nhưng Tiêu Phục Huyên không lùi dù chỉ một bước.
Y nhấn ngón tay vào giữa mày Ô Hành Tuyết và nói, “Đừng cau mày.”
Ô Hành Tuyết còn tính nói tiếp.
Tiêu Phục Huyên đã trầm giọng, “Năm xưa ta đến Chiếu Dạ thành tìm ngươi cứ thấy ngươi cau mày hoài.”
Ô Hành Tuyết: “…”
Đó là những năm hai người họ tiên ma khác biệt. Chàng không muốn để lộ bản tính tà ma trước mặt Tiêu Phục Huyên, bởi vậy nên chàng thường trưng nét mặt ghét bỏ và cất giọng móc mỉa hòng khích cho đối phương rời đi.
Mà giờ đây nhắc lại, chàng không khỏi nghĩ về hình ảnh Tiêu Phục Huyên cô độc đứng bên ngoài cổng vào Chiếu Dạ thành.
Xót xa và yếu lòng nhanh chóng lấn át tâm trạng, khiến chàng không sao tức giận nổi nữa.
Nhưng ma đầu vẫn không cam lòng.
Chàng mím môi nhìn Tiêu Phục Huyên, dự định phải nghiêm mặt hỏi thêm mấy câu. Kết quả chẳng gì đã bị nụ hôn gieo trên đuôi mắt và giữa mày xoa dịu cho nghiêm không nổi nữa.
“Đừng mỗi lần không biết đường trả lời thì chặn người khác như vậy,” Ô Hành Tuyết nói. “Không có tác dụng đâu.”
Tiêu Phục Huyên trầm giọng đáp “Ừm”, kế đó lùi lại một chút, buông mắt nhìn qua rồi nhỏ giọng thầm thì, “Nhưng ngươi lại cau mày rồi, Ô Hành Tuyết.”
Ô Hành Tuyết: “…”
“Vì ta bị ngứa!” Giọng chàng vẫn đanh như thép, nhưng không nói tiếp được nổi. Chàng đành phải mặc kệ hết thảy, nhắm mắt lại rồi duỗi tay kiểm tra các huyệt đạo quan trọng của Tiêu Phục Huyên một lần nữa.
Vừa nãy mới biết người kia từng thẩm vấn chính bản thân, giờ đầu ngón tay chàng chỉ dám chạm vào thật khẽ khàng cẩn thận khi di chuyển đến ngực và cổ Tiêu Phục Huyên.
Khí kình chàng lạnh cùng cực, ngay cả ngón tay cũng lạnh như băng. Dùng ngón tay ấy xoa nhẹ trên người thật sự hơi nhột, thế là chưa bao lâu chàng đã bị Tiêu Phục Huyên giữ cánh tay lại.
Thiên Túc nói, “Vừa nãy đã kiểm tra rồi mà?”
“Ban nãy kiểm vội quá, ta không yên tâm,” Ô Hành Tuyết nói. “Chính ngươi cũng từng nói, thẩm vấn nhằm mục đích khiến người bị thẩm vấn sợ hãi, tuyệt vọng, mang đến cảm giác đau đớn muốn chết. Bị một thanh trường kiếm sắc bén mãnh liệt nhường ấy đâm vào người thì sao có thể không thương tổn, không để lại dấu vết.”
Chàng chuyển sang tay còn lại, tiếp tục nhấn từng chỗ một, vừa nhấn vừa lầm bầm, “Có phải ngươi giở thủ thuật che mắt nào đó để giấu đi vết thương cũ hay không?”
Tiêu Phục Huyên: “Không có.”
Ô Hành Tuyết còn nghi ngờ. “Thật không?”
Tiêu Phục Huyên: “Thật.”
Ô Hành Tuyết: “Ta không tin.”
Tiêu Phục Huyên: “…”
Ô Hành Tuyết: “Ngươi đừng nói gì cả, giờ lời ngươi nói không còn đáng tin nữa.”
Chàng vừa nói vừa tiếp tục kiểm tra. Lần này chàng kiểm tra cực kỳ thận trọng nhưng cuối cùng vẫn không tìm được dấu vết nào rõ ràng. Trong lòng còn buồn bực, chàng đã nghe Tiêu Phục Huyên nói, “Không phải ngươi đã xem thẩm vấn Minh Vô Hoa Tín rồi à?”
Ô Hành Tuyết kinh ngạc.
Thẩm vấn Hoa Tín có nhắc đến những sự việc xảy ra hai lăm năm trước. Theo những gì Hoa Tín nhìn thấy, thời điểm lao đến Tiên Đô đúng là Tiêu Phục Huyên không giống với một người chịu thương, hay đang cố gắng gượng gì cả.
Nhưng những hình ảnh trong thẩm vấn luôn lướt qua chóng vánh chứ không mấy rõ ràng nên khó lòng kết luận được.
Những thay đổi trong nét mặt Ô Hành Tuyết đều không thoát khỏi mắt Tiêu Phục Huyên. Tiêu Phục Huyên im lặng giây lát rồi đành tỏ giọng ấm áp mang chút bất đắc dĩ, “Để ta kể cho ngươi nghe.”
Ô Hành Tuyết: “Tuyệt đối không thiếu sót?”
“Tuyệt đối không thiếu sót.”
“Thề?”
“Ừm.”
Đúng ra ban đầu Tiêu Phục Huyên không định kể mấy chuyện nhỏ nhặt không đáng này, ít nhất là chưa kể vào thời điểm này.
Tính tình y xưa nay luôn vậy, nhắc đến chuyện gì cũng chỉ qua loa đôi ba câu, thường sẽ gồm khởi đầu và kết quả, còn quá trình hay diễn biến liên quan đến thương tích hoặc chịu đựng ở đoạn giữa đều bị lược mất vì y sợ sẽ mang đến sợ hãi và âu lo.
Nhưng y phát giác ra cách này không có tác dụng đối với Ô Hành Tuyết. Tất cả những chuyện y lược bỏ đi đến lúc nào đó sẽ bị đối phương cảm giác được, xong hỏi tới tới cho đến khi biết được tất cả.
Dường như tất cả mọi việc liên quan đến y đều đã định phải phơi bày dưới nắng mai, tuyệt không thiếu sót, một chút cũng không thể bỏ qua.
“Đúng là sau đợt thẩm vấn ấy ta bị thương,” Tiêu Phục Huyên ôn tồn nói. “Nhưng vết thương đó đã nghịch chuyển trở lại.”
Ô Hành Tuyết sửng sốt. “Nghịch chuyển?”
Tiêu Phục Huyên gật đầu. “Ừm.”
Ô Hành Tuyết thắc mắc vô cùng. “Tại sao?”
***
Trên thực tế, ngày hôm đó đến chính Tiêu Phục Huyên cũng cảm thấy hoài nghi.
Y là người rõ ràng hơn ai hết thẩm vấn có tác động nghiêm trọng lên linh phách đến mức nào, thân linh bị tổn thương nặng nề đến mức nào. Cho tới thời điểm y đến Tiên Đô, vung một kiếm phóng qua mười hai đỉnh vách đá treo cao đặng che chắn trước người Ô Hành Tuyết, thân linh y vẫn đang bị thương. Chỉ không để lộ chút nào trên mặt mà thôi.
Nhưng chưa qua ít lâu, thân thể gánh chịu thẩm vấn của y dần dà có dấu hiệu khôi phục trở lại.
Tình huống vô cùng quái dị. Thời điểm đó y không hề tĩnh toạ an dưỡng, cũng không dùng bất kỳ một loại tiên đan linh dược gì, mà thậm chí còn giao chiến với người khác.
Về lý mà nói, vết thương của y phải trở nặng hơn mới phải.
Khi ấy, Tiêu Phục Huyên vừa mới nhớ ra những chuyện quá khứ thông qua đợt thẩm vấn nên ký ức có hơi mù mờ hỗn loạn. Bên trong lớp ký ức mơ hồ từng bị tận diệt, y chợt nắm bắt được một chút gì đó…
Trước cả thời điểm Ô Hành Tuyết làm Linh Vương, đã có một mối liên kết vô hình kết nối y và Ô Hành Tuyết, một mối liên kết nở và tàn, được và mất.
Mỗi lần Ô Hành Tuyết rơi vào tình trạng thân linh suy nhược sau khi chém đứt dòng rối loạn và trở về Tiên Đô, linh khí trên người Tiêu Phục Huyên cũng sẽ chuyển dời sang người Ô Hành Tuyết trong vô thức để hỗ trợ chàng hồi phục.
Nhớ đến chuyện ấy, Tiêu Phục Huyên hốt hoảng trong lòng. Y tưởng rằng mối liên hệ hỗ trợ cung cấp này vẫn còn tồn tại, và tồn tại hai chiều. Y tưởng rằng nguyên do cơ thể mình dần trở nên tốt đẹp hơn là nhờ hút linh từ Ô Hành Tuyết.
Thành thử trong suốt cuộc hỗn chiến Tiên Đô, y phải không ngừng kiểm tra để đảm bảo Ô Hành Tuyết vẫn bình an.
Sau mấy lần kiểm tra, Tiêu Phục Huyên mới yên tâm lại — bởi y có thể cam đoan việc cơ thể mình dần hồi phục không xuất phát từ Ô Hành Tuyết.
Sau đó, y mới nhớ ra vào ngày Linh Vương bị tận diệt, y đã chuyển liên kết ràng buộc giữa hai người sang bức tượng ngọc do chính tay mình tạc nên.
Đó không phải liên kết hai chiều, mà chỉ là một chiều…
Nếu Ô Hành Tuyết mắc bệnh hoặc bị thương nặng, y có thể giúp đỡ đối phương.
Còn ngược lại, tuyệt không có phản ứng.
Từ lúc đó, rốt cuộc cơn cớ vì sao những thương tổn y phải nhận từ thẩm vấn lại dần chuyển biến tốt đẹp vẫn mãi là một khúc mắc.
Đến thời điểm cuối cùng cuộc hỗn chiến Tiên Đô, khúc mắc đó mới có lời giải đáp.
Khi ấy, Tiên Đô hiện thế và Tiên Đô dòng rối loạn chồng chập vào nhau trong tích tắc. Một chiêu mệnh của Tiêu Phục Huyên đang che chở thân thể Ô Hành Tuyết, chiêu mệnh còn lại đặt trên người Thiên Túc của dòng rối loạn.
Tích tắc ấy là lúc Tiêu Phục Huyên hiểu rõ nguyên do.
Khi chiêu mệnh Tiêu Phục Huyên đụng vào Thiên Túc dòng rối loạn, y mới phát hiện linh phách đối phương cũng bị tổn hại, và tổn hại đó cũng đi kèm kiếm ý thanh kiếm mang tự “Miễn”.
…
Ô Hành Tuyết nghe thấy bèn cau mày. “Kiếm ý? Ngươi khẳng định đó là kiếm ý của thanh linh kiếm ngươi mang bên mình?”
Tiêu Phục Huyên nói, “Kiếm của ta, tất nhiên ta không nhận lầm.”
“Linh phách tổn hại và còn đi kèm kiếm ý…” Ô Hành Tuyết lẩm bẩm, chàng vốn rất nhạy bén nên lập tức hiểu điều đó có ý gì. “Chỉ có thẩm vấn mới để lại dấu vết như vậy?”
Tiêu Phục Huyên gật đầu. “Chỉ có thẩm vấn.”
Ô Hành Tuyết: “Vậy tại sao trên cơ thể hắn cũng có dấu vết của thẩm vấn? Đâu đến mức hắn cũng trải qua những việc giống hệt như ngươi được.”
Chỉ cần nhìn Vân Hãi và Hoa Tín là thấy ngay, dù dòng rối loạn là ảo ảnh nhưng không đồng nghĩa sẽ giống hệt hiện thế.
Tiêu Phục Huyên thẩm vấn bản thân mình ở Thương Lang Bắc Vực hòng nhớ lại chuyện tận diệt lúc trước. Vậy còn Thiên Túc dòng rối loạn thì sao? Hắn vốn không có lý do để thẩm vấn bản thân mình.
“Nói cho cùng, dù hắn có lý do gì đó để thẩm vấn bản thân thì cũng không thể trùng hợp thời điểm với ngươi đến như vậy,” Ô Hành Tuyết đăm chiêu. “Vậy chỉ có một khả năng duy nhất.”
Chàng ngước mắt nhìn Tiêu Phục Huyên. “Vết thương giống ngươi y hệt bắt nguồn từ chính bản thân ngươi.”
***
Thời điểm đó, Tiêu Phục Huyên đã đoán như vậy, để rồi chỉ qua chớp nhoáng, đoán định đó đã được xác nhận…
Khi y đốt linh phách mình để làm xúc tác hòng tung chiêu mệnh vào thân thể Thiên Túc dòng rối loạn, trên linh phách đối phương cũng xuất hiện dấu “vết thương bị đốt” hừng hực.
Hai dấu vết gần như giống hệt nhau, trạng thái hai bên cũng tương đương từ đầu đến cuối như hai mặt phản chiếu của một tấm gương.
Và trong suốt quá trình “tương đương” đó, có một dấu ấn hơi lập loè sáng lên trên cả hai người bọn họ.
Đó là dấu ấn vàng chữ “Miễn” được trời ban.
Dấn ấn ấy vô hình phần lớn thời gian, chỉ trong một số tình huống đặc biệt mới lộ ra ngoài —
Một là khi vừa diệt trừ hoạ loạn tà ma, trên người y nhiễm tà ma khí và bị tổn hại linh phách. Hai là trong lúc ý thức mơ màng mê ly.
Trước đây, cả Tiêu Phục Huyên lẫn Ô Hành Tuyết đều cho rằng dấu ấn này chỉ đơn giản là điểm đặc trưng của Thiên Túc và Linh Vương, giống như những vết bớt dùng để nhận dạng trên thân thể phàm nhân chứ ngoài ra không có tác dụng gì khác.
Cho đến tận thời điểm đó, giữa khi Tiêu Phục Huyên và Thiên Túc dòng rối loạn đối đầu khiến hai dấu ấn vàng sáng lên cùng lúc, y mới vỡ lẽ dấu ấn đó không hề vô dụng.
Cách lưu chuyển của hai dấu ấn này giống hệt với một loại ấn chú.
Ấn chú đó được gọi là ấn thờ.
Những nam đồng nữ đồng bên dưới thung lũng Đại Bi cũng mang cùng loại ấn này. Dấu ấn sau cổ Y Ngô Sinh và Hoa Chiếu Đình trước đây cũng là loại này.
Nó từng là loại ấn chú thông dụng và quen thuộc nhất với chúng tiên trên Tiên Đô…
Bọn họ đặt ấn thờ của bản thân trên người những pho tượng thần trong chỗ thờ cúng mình dưới nhân gian. Qua đó, số hương hoả tượng thần nhận được sẽ chuyển hoá thành linh lực, tất cả số linh lực đó được đưa hết về bản tôn.
Nhờ vậy, chúng tiên có thể đảm bảo bản thân không cạn linh lực, không mất tiên nguyên.
***
Vừa nghe đến ấn thờ, Ô Hành Tuyết giật thót tim.
Theo bản năng, chàng vươn tay sờ bên cổ Tiêu Phục Huyên, ngón tay dừng nơi lẽ ra nên có dấu ấn vàng chữ “Miễn”, chàng nói, “Thế nên… dấu ấn được trời ban tặng này thật ra là ấn thờ?”
Tiêu Phục Huyên gật đầu. “Ừm.”
Thực tế, hai lăm năm trước, trận đối đầu giữa y và Thiên Túc dòng rối loạn diễn ra chỉ trong chớp mắt. Y còn chưa kịp ngẫm kỹ thì mọi thứ đều đã đi đến hồi kết.
Ngay sau đó, Tiên Đô sụp đổ, Ô Hành Tuyết được an vị ở Thương Lang Bắc Vực, còn bản thân y chóng bị phiêu tán linh phách vào màn sương băng giá, hoàn toàn không có cơ hội suy xét rốt cuộc “ấn thờ” có ý nghĩa gì.
Mãi đến khi bị đánh thức trong cỗ quan tài, nhìn thấy hiện tượng “triệu hoán người phàm” ở thung lũng Đại Bi với Ô Hành Tuyết, đồng thời có một mảnh vỡ linh phách đang quan sát sự việc của dòng rối loạn trong âm thầm, Tiêu Phục Huyên mới dần dà hiểu ra mọi việc.
Y nói với Ô Hành Tuyết, “Ngươi và ta của dòng rối loạn khác với Vân Hãi và Hoa Tín, chúng ta không sinh ra từ nhân quả của dòng rối loạn và cũng không phải chỉ đơn thuần là ảo ảnh phản chiếu.”
“Có lẽ việc này có can hệ đến mối liên quan giữa ngươi và Thiên đạo Linh đài.”
Tiêu Phục Huyên ngừng đoạn, mới thung dung nói tiếp, “Nếu thế gian chỉ có một Thiên đạo Linh đài thì làm sao có Linh Vương thứ hai.”
Ô Hành Tuyết nghe thế thì sững sờ.
Đến đây, chàng đã đâu đó hiểu rõ ngọn nguồn…
Chàng và Thiên đạo Linh đài cùng nguồn cùng cội. Nếu chỉ có một Thiên đạo Linh đài thì bản thân chàng cũng nên như thế. Cho dù xuất hiện dòng rối loạn cũng không nên tồn tại một Linh Vương giống chàng như đúc.
Và Thiên Túc cũng vậy.
Ở đâu ra thêm một Tiêu Phục Huyên thứ hai ngăn cản lôi kiếp cho thần mộc rồi chống thân kiếm qua đời dưới tàn cây?
Thành thử, dù trên dòng rối loạn có người nào đi chăng nữa cũng không nên xuất hiện Thiên Túc Tiêu Phục Huyên và Linh Vương Ô Hành Tuyết. Thế nhưng trên thực tế nó đã “xuất hiện”. Vậy thì “Thiên Túc” và “Linh Vương” của dòng rối loạn từ đâu đến là một vấn đề rất đáng suy ngẫm.
Tiêu Phục Huyên nói, “Ta đã tìm thấy một vài manh mối nhưng chỉ có thể xác nhận Thiên đạo Linh đài đã mượn linh vật gì đó để đắp thành thân thể, rồi từ đó hai thân thể mới hấp thu linh lực thông qua ấn thờ trên cổ ngươi và ta để nuôi dưỡng thành kẻ gọi là Thiên Túc và Linh Vương.”
Nếu nói những người khác là ảo ảnh phản chiếu từ hiện thế nên có thể xem như một phiên bản khác của chính mình, thì “Thiên Túc” và “Linh Vương” dòng rối loạn chính là ngoại lệ.
Thể xác hai người được tạo thành từ linh vật và hoàn toàn không liên quan gì đến Tiêu Phục Huyên và Ô Hành Tuyết nguyên bản. Nhưng thể xác chỉ là bình rỗng, còn tất cả những thứ được bổ sung cho đầy đủ đều bắt nguồn từ chính Tiêu Phục Huyên và Ô Hành Tuyết.
Linh khí và tiên nguyên vốn là một phần của Tiêu Phục Huyên và Ô Hành Tuyết, vì vậy mà “Thiên Túc” và “Linh Vương” gần như không khác biệt gì bản tôn về thói quen, hành động, thần thái cũng như giọng điệu, thậm chí còn giống hơn cả những ảo ảnh phản chiếu kia.
Bên cạnh đó, còn có mối ràng buộc “ấn thờ”.
Ô Hành Tuyết lặng thinh hồi lâu, nét mặt nhuốm vẻ đăm chiêu.
Chàng nhớ đến khung cảnh hỗn chiến Tiên Đô hai lăm năm trước theo lời Tiêu Phục Huyên và nói, “Thảo nào khi ngươi bị tổn thương từ thẩm vấn thì vị của dòng rối loạn cũng bị thương theo, tất cả đều vì ấn thờ kia. Nói như vậy… rồi hai bên sẽ rơi vào trạng thái cân bằng?”
Tiêu Phục Huyên nói, “Hẳn là vậy.”
Đây có lẽ chính là trạng thái mà Thiên đạo mong muốn lúc đầu — Thiên Túc và Linh Vương dòng rối loạn không bao giờ rơi xuống hạ phong khi đối đầu với nguyên bản hiện thế.
Nhưng đó chính là con dao hai lưỡi.
Lúc trước, Tiêu Phục Huyên bị thương nên không ở phong độ đỉnh cao. Vì mối ràng buột ấn thờ nên Thiên Túc dòng rối loạn cũng rơi vào tình huống tương tự. Đã vậy thì vấn đề không còn khó giải quyết nữa.
Huống hồ, có một sự khác biệt rất lớn giữa hai bên — khởi đầu của kiếp này.
Linh phách Tiêu Phục Huyên bẩm sinh đã tan rã, còn Thiên Túc dòng rối loạn chỉ có hư linh tròn vẹn được ấn thờ nuôi dưỡng mà thành.
Vì thế, vào thời khắc cuối cùng của hai lăm năm trước khi cả hai đều bị tiêu tán linh phách, một bên sinh, một bên tử.
Ngay thời điểm Thiên Túc dòng rối loạn mất mạng, hết thảy linh lực và tiên nguyên được hấp thu lúc trước đều hoàn trở về Tiêu Phục Huyên. Cũng nhờ đó mà Tiêu Phục Huyên có thể ngưng tụ thành ảo ảnh đặng ôm lấy Ô Hành Tuyết tiến vào Thương Lang Bắc Vực.
***
Ô Hành Tuyết tần ngần nói, “Nói vậy, thực lực Linh Vương hiện giờ chắc không thua kém ta…”
Nói giữa chừng, chàng ngưng lại giây lát rồi bật cười.
“À, nào phải,” chàng phủ nhận luôn nửa câu đầu, thản nhiên nói tiếp, “Sao tương đương được, phải chênh lệch rất nhiều mới đúng. Giờ ta đâu còn dấu ấn kia nữa.”
Dấu ấn vàng bên cổ mang tự “Chiêu” đại diện cho Linh Vương đã không còn từ thời điểm chàng trở thành tà ma ba trăm năm về trước.
Ấn thờ kết nối hai phía cũng đứt đoạn từ đấy.
Thành thử, chàng từ tiên đoạ ma, trở thành thành chủ Chiếu Dạ thành Ô Hành Tuyết, gánh chịu thương tích từ kiếp kỳ. Trong lúc đó, vị kia vẫn mãi dừng lại tại thời điểm ba trăm năm về trước, là “Linh Vương” trong phong độ đỉnh cao.
***
Ô Hành Tuyết suy tư rồi nói, “Không ổn rồi.”
Tiêu Phục Huyên tưởng có chuyện lạ gì, bèn hỏi, “Sao thế?”
Ô Hành Tuyết: “Ta trong thời đỉnh cao phong độ ba trăm năm trước… sợ rằng ngươi đánh không lại đâu.”
Tiêu Phục Huyên: “?”
Ô Hành Tuyết liếc nhìn y. “Ngươi trưng bản mặt gì thế?”
Tiêu Phục Huyên: “Không có gì.”
Ô Hành Tuyết giở giọng phô trương. “Ngươi đánh không lại.”
Tiêu Phục Huyên liếc chàng như tính nói gì đó. Bỗng y nhớ về bóng hình phóng thoăn thoắt qua sương mù giá lạnh ở Kinh Quan năm xưa, bèn tỏ giọng đồng lòng, “Xem như là vậy đi.”
“Ngươi có từng giao đấu với y ở trong dòng rối loạn chưa?” Ô Hành Tuyết hỏi tiếp.
Tiêu Phục Huyên: “…”
Y không nhịn nữa mà cất giọng nhắc nhở ai đó, “Ta chỉ để lại thân thể kèm mảnh vụn linh phách. Cớ gì phải đi mời đòn.”
Bộ thích bị lộ lắm hả?
Nét mặt y quá chi là hài hước, khiến cho Ô Hành Tuyết không khỏi bật cười. Nhưng sau một lúc cười giỡn, chàng nghiêm mặt lại. “Không biết tình hình vị ở dòng rối loạn thế nào rồi, liệu y có nhận ra bản thân đang ở trong dòng rối loạn hay không?”
Chàng ngẫm nghĩ rồi nói, “Thật ra ta không biết nên đối xử thế nào với vị… ‘Linh Vương’ đó.”
Cũng có thể xem đó như một phần của chàng, vì y đã hấp thụ linh lực và tiên nguyên, dùng nó như chất dinh dưỡng để nuôi thành trong lúc chàng không mảy may để ý.
Tức nghĩa về bản chất, nó giống với cách bọn họ tách một thể xác ra và tạo thành con rối. Nhưng thể xác và con rối do chính họ toàn quyền định đoạt, mang cùng tư cùng tưởng.
Còn “Linh Vương” kia không giống như vậy.
Chàng không biết những nội tâm tư tưởng hiện tại của “Linh Vương” còn giữ và chịu ảnh hưởng bao nhiêu từ chàng.
Nếu còn tròn vẹn thì tốt không gì bằng. Còn nếu không tròn vẹn, thì phần còn lại do “Linh Vương” tự sinh ra, hay… chịu ảnh hưởng từ Thiên đạo Linh đài?
Nếu rơi vào khả năng sau…
Sẽ là phiền phức to.
Ô Hành Tuyết bày tỏ nghi vấn này.
Tiêu Phục Huyên suy tư chốc lát rồi trả lời, “Khó mà biết.”
Ô Hành Tuyết cảm thấy căng thẳng. “Nói vậy là sao?”
Không phải Tiêu Phục Huyên suốt ngày chăm chăm quan sát dòng rối loạn, đa phần y chỉ để lại thân thể để hỗ trợ mảnh vỡ linh phách trong những việc thường ngày. Sau một hồi ngẫm nghĩ, y nói, “Tính ra ta cũng chưa tiếp xúc nhiều, nhưng theo ta thấy thì có những lúc hành vi của Linh Vương rất quái lạ.”
Có lẽ “Thiên Túc” và “Linh Vương” dòng rối loạn vốn dĩ đã không tồn tại mà chỉ được đắp nặn thành hình từ linh lực và tiên nguyên của Tiêu Phục Huyên và Ô Hành Tuyết. Vì vậy, họ có nhiều điểm khác biệt với “người” thực thụ.
Thoạt nhìn, giọng điệu, thói quen, và tính tình họ gần như không khác gì bản tôn, nhưng về bản chất lại hơi hời hợt nông cạn hơn.
Giống như họ chỉ học được lớp vỏ bọc bên ngoài.
“Y cũng gọi mấy người Tang Phụng Lễ các là “tiên hữu” giống ngươi vậy,” Tiêu Phục Huyên nói. “Nhưng năm xưa ngươi thường qua lại với nhóm Tang Phụng còn y thì rất hiếm khi.”
“Vân Hãi cũng thế.”
Nhưng Vân Hãi thường hay tự chủ động mang rượu ghé thăm nên số lần qua lại cũng nhiều hơn.
“Còn với ‘Thiên Túc’ dòng rối loạn thì sao?” Ô Hành Tuyết hỏi.
“Cũng vậy, bằng không ta đã bị lộ từ lâu.”
Tương tự với bản tôn trong hiện thế, mỗi khi nhắc đến họ, người trên Tiên Đô thường dùng những cụm “đi cùng nhau”, “có qua lại”, “thư từ thường xuyên”. Người ta nói sao thì họ chính là như vậy. Không hơn không kém.
Vẫn chỉ là một tầng vỏ bọc.
Cứ như thể tất cả mọi thứ đều bị che phủ phía sau màn sương mù.
Ô Hành Tuyết lắng nghe rồi rầm rì nói, “Nếu thế thì kỳ lạ thật sự. Đây không chỉ là hời hợt nông cạn mà nghe giống như vị “Linh Vương” đó đang trở thành hình mẫu mà những người trên Tiên Đô nhìn nhận.”
“Nói cách khác…” chàng dừng đoạn mới tiếp tục, “ấy chẳng phải chính là nhìn nhận của Thiên đạo đấy à?”
Thảo nào Tiêu Phục Huyên bảo rằng “Khó mà biết”.
Nếu đã vậy, chuyện quái lạ chưa dừng lại tại đây.
Nếu “Linh Vương” đó đã từng đến hiện thế, thậm chí còn từng ngược dòng quá khứ để tìm ra ngọn nguồn khởi đầu của hiện thế, đồng thời gây ra cuộc hỗn chiến Tiên Đô hai lăm năm trước.
Lẽ ra sau tất cả những chuyện đó, ít nhiều gì y cũng phải nảy sinh nghi ngờ trong lòng mới đúng.
Nhưng mối hoài nghi của y vẫn chỉ dừng ở mức hời hợt, để rồi vẫn sống như thường qua suốt nhiều năm.
Hồi ở dưới đáy thung lũng Đại Bi dòng rối loạn, rõ ràng “Linh Vương” đã chứng kiến thẩm vấn Hoa Tín. Khi y bất ngờ xuất hiện và nhắc đến chuông mộng với Hoa Tín thì nghe giọng điệu đã thấy rõ y cảm nhận được thế gian nơi mình ở không đúng lắm.
Vậy mà khi trong thế đối đầu với Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên, thái độ và cách nói chuyện của y hoàn toàn thay đổi.
Giống như là mối hiềm nghi của y chỉ dấy lên chút ít rồi ngừng lại và phai nhạt, thậm chí còn biến mất.
Ô Hành Tuyết vừa nhớ lại vừa thả chậm giọng, “Phong thái vị ‘Linh Vương’ kia đúng thật không giống người thường, làm gì có người bình thường nào đổi ý giữa chừng như vậy. Có vẻ như là…”
Chàng ngưng lại chút, Tiêu Phục Huyên tiếp lời, “Bị tác động giữa chừng.”
Ô Hành Tuyết: “Đúng vậy.”
Giống như thể mỗi một lần “Linh Vương” nọ tiếp cận đến điểm mấu chốt để khai thông vấn đề thì sẽ nhận tác động từ đâu đó, dẫn đến việc tất cả mọi thứ bị nén ngược trở lại, và cuộc sống cứ tiếp diễn qua ngày chẳng chút đổi thay.
Tác động này từ đâu ra thì không cần phải bàn.
Trên thực tế, trước đây Ô Hành Tuyết từng tự thắc mắc…
Thiên đạo cảm thấy không thể khống chế được hiện thế nên chuyển sang dòng rối loạn. Vậy làm sao nó đảm bảo có thể khống chế được dòng rối loạn? Làm sao đảm bảo được ‘Linh Vương’ sẽ không tạo phản?
Nếu Linh Vương tạo phản lần nữa, không lẽ nó lại tính tạo ra thêm dòng rối loạn mới?
Bây giờ xem ra đã rõ ràng hơn rồi.
“Linh Vương” dòng rối loạn ra đời từ linh lực và tiên nguyên Ô Hành Tuyết nên cũng xem như một phần của Ô Hành Tuyết. Song, chỉ e rằng còn có sự can thiệp và tác động của Thiên đạo Linh đài bên trong.
Vì vậy, Thiên đạo tin rằng y sẽ không tạo phản.
Ô Hành Tuyết hỏi Tiêu Phục Huyên, “Ngươi nhận ra y có điểm lạ và có khả năng chịu ảnh hưởng từ Thiên đạo từ lúc nào?”
Tiêu Phục Huyên đáp, “Từ trước rồi.”
“Vậy tại sao còn muốn dẫn y đến nhìn những con người và sự việc đó làm gì?” Ô Hành Tuyết thắc mắc hỏi. “Không sợ phí công vô ích sao?”
Tiêu Phục Huyên nói, “Không phải lúc nào y cũng chịu ảnh hưởng của Thiên đạo.”
Im lặng giây lát, y mới nói tiếp, “Chưa kể, có những việc trên đời này mà Thiên đạo không thể định đoạt, cũng có những người mà Thiên đạo không thể điều khiển.”
Ô Hành Tuyết trầm ngâm, “Nghe có vẻ như một canh bạc, có điều thật ra vị ‘Linh Vương’ kia…”
Chàng còn chưa dứt lời, Tiêu Phục Huyên đã nhìn chàng và nói, “Ô Hành Tuyết, ta đang nói ngươi.”
Ô Hành Tuyết sững người trong giây lát.
“Ta?”
“Ừm.”
Tiêu Phục Huyên nói, “Y ra đời vì ngươi, hoá hình thành người bằng linh lực và tiên nguyên của ngươi. Từng cử chỉ lời nói đều bắt nguồn từ ngươi, dù có hời hợt, nông cạn đi chăng nữa thì đó vẫn là ngươi.”
Nên làm gì có “vị Linh Vương đó” nào, trên đời này từ trước đến nay chỉ có duy nhất một vị Linh Vương, là độc nhất vô nhị, dù ba trăm năm trước hay ba trăm năm sau cũng thế.
Chàng dám tự khoét máu thịt cả người để chống lại Thiên đạo, thành tiên, thành ma, thành quỷ, thành người. Sẽ không vì có phần hời hợt, có chút nông cạn, hay vì phải hứng chịu ảnh hưởng từ Thiên đạo mà chàng xuôi lòng chấp nhận thiện ác cưỡng cầu hay cân bằng sinh tử dối gian.
Đây không phải là một canh bạc.
“Vì đấy là ngươi, nên ta muốn thử xem,” Tiêu Phục Huyên nói.