Mấy trăm năm nay, hoạ hoạn không ngừng xảy ra trên thế gian, nhưng nhờ có sự bảo hộ của nhà họ Phong mà phố núi Lạc Hoa vẫn luôn giữ được sự hưng thịnh và nhộn nhịp. Bởi thế, mỗi khi nhìn thấy họ, những người trong phố núi đều tỏ lòng kính trọng khôn cùng.
Một khi tà ma phải đương đầu với họ, đặc biệt khi thấy những thanh gươm khắc chữ Phong, chúng đều tỏ vẻ kiêng dè, thường sẽ lập tức tấn công hoặc ngoảnh đầu chạy biến.
Hôm nay là lần đầu tiên họ gặp phải một vị như vậy.
Tà ma này vô cùng dửng dưng trước kiếm mang danh “Phong” thì chớ, mở miệng nói câu đầu tiên không phải hô đánh hô giết, mà lại bảo họ làm việc.
Quả thật quỷ quái!
Cô nương trẻ tuổi nọ nghe vào mà cứng cả họng, suýt chút ức chế không biết nên trả lời làm sao. Nàng ngây người giây lát rồi trừng to đôi mắt hạnh và nói, “Ngươi là một… người bò ra từ dưới lòng đất bẩn thỉu, chớ có ngông cuồng mạnh miệng!”
Lẽ ra, nàng có thể tỏ vẻ hung hãn hơn nữa, song tên tà ma này toát ra dáng vẻ tự phụ như lẽ nghiễm nhiên, khi đối diện với một người như vậy thật khó lòng thốt ra những câu từ quá chát chúa.
Dù vậy, nó cũng không cản trở họ xuất kiếm—
Lời hăm doạ của tà ma vừa nói ra, bảy tám đệ tử nhà họ Phong đã đồng loạt rút trường kiếm bên hông!
Keng keng —
Vừa nghe thấy mấy tiếng kiếm vang dội, kiếm khí trên thân những thanh trường kiếm kia tức thì hoá thành mũi nhọn và đâm thẳng về phía Ô Hành Tuyết!
Ngay tiếp đó, chỉ còn thoáng thấy bóng người nọ — kiếm khí luân phiên xuyên xé nhưng không hề chạm đến tà ma kia mà hướng thẳng về chiếc giường phía sau lưng.
Tiếng gỗ gãy lìa nảy lên liên hồi, gỗ vụn bắn tung toé khắp nơi.
Chủ quầy đứng cạnh bàn giật bắn cả người, hối hả lùi về sau mấy bước để nấp vào bên cạnh đệ tử nhà họ Phong, đảm bảo an toàn cho tính mạng bản thân.
Ông vừa dịch chuyển thì nghe thấy một tiếng nổ đùng nặng nề.
Bốn thanh chống giường bị kiếm chém tan tành, chiếc giường mới rồi còn nguyên vẹn đổ sầm trên mặt đất và trở thành một đống gỗ nát.
Tất cả những người nhà họ Phong đều mất hồn mất vía.
“Người đâu rồi?!” Họ thốt hỏi một câu, không ngờ lập tức nghe thấy lời đáp.
“Các người tìm ta à?”
Tiếng nói truyền đến từ sau lưng.
Ai nấy đều sượng cả người, đoạn đột ngột quay đầu lại thì thấy tà ma kia đã di chuyển tức thời đến giữa nhóm bọn họ tự khi nào.
Tà ma đứng sau lưng một viên đệ tử xui xẻo, nắm lấy cánh tay đệ tử kia và ép ngược thanh kiếm của cậu vào bên trong, mũi kiếm đảo chiều kê bên cạnh cổ cậu đệ tử nọ.
“Ngươi…” nét mặt cậu đệ tử tái me tái mét, trông cực kỳ căng thẳng, gân xanh nổi cộm trên mu bàn tay.
Cậu gắng gượng tranh đấu với bàn tay đang nắm cổ tay mình nhưng không chút hiệu quả, còn suýt nghiến đến gãy răng.
Chợt nghe tà ma kia cất giọng thong dong, “Có người không cho ta náo động quá ầm ĩ nên ta cũng chỉ đành làm vầy. Lẽ ra ta nên khống chế vị đi đầu kia, thế nhưng đứng đầu nhóm các vị lại là một cô nương, ra tay bừa bãi lại hoá ra không khác gì hạng háo sắc. Ta cũng hết cách, chỉ đành làm khổ cậu vậy.”
“…”
Giọng điệu nghiêm túc cực kỳ, đệ tử nghe xong thiếu điều hộc máu.
Mà vào tai những người khác còn mang thêm một tầng nghĩa rằng: Ta có khả năng bắt bất kỳ ai trong các ngươi, chẳng qua tuỳ ý ta chọn lựa mà thôi.
Mấy đệ tử bị khích vậy thì sa sầm nét mặt, toan giương kiếm lên thì nghe thấy một tiếng r3n rỉ, lưỡi kiếm nhấn sâu hơn bên cổ cậu đệ tử bị bắt, vết hằn nông hiện ra trên cuống họng.
“Không một ai cử động!” Cô nương trẻ tuổi quát lên.
Ai nấy đều siết chặt chuôi kiếm trên tay nhưng không nhúc nhích.
Lưỡi kiếm kề trên cổ đệ tử nọ cũng ngừng lại, không nhấn sâu xuống nữa.
Chủ quầy chần chừ một chút rồi lẳng lặng nhích từng bước nhỏ trở lại kế bên bàn.
Cô nương trẻ tuổi nhìn chằm chặp thanh kiếm kia một hồi, cuối cùng cất giọng, “Khi chúng ta vừa vào phòng, ngươi nói muốn tìm người?”
“Đúng vậy.”
Gương mặt xinh đẹp của nàng nhăn nhúm lại. Nàng nhìn Ô Hành Tuyết với vẻ khó hiểu một lát mới dời mắt mình sang chủ quầy và thấp giọng hỏi, “Rốt cuộc tại sao lại thành ra thế này? Không phải lần này cũng giống những tai hoạ lúc trước à?”
Chủ quầy trông vô cùng đau khổ. “Đúng là giống đấy.”
Cô nương trẻ lại liếc sang Ô Hành Tuyết, rồi liếc sang chủ quầy. “Vậy phải tìm ai? Người mất tích lẽ ra nên là…”
Chủ quầy khoát tay lia lịa. “Đừng nói đừng nói! Xin các tiên cô tiên trưởng hãy làm theo và cứ tìm giúp đi ạ.”
Cô nương trẻ hãy còn chưa cam tâm, quay đầu nhìn Ô Hành Tuyết chằm chằm lần nữa. “Nếu ngươi đã mạnh đến mức muốn bắt ai có thể bắt ngay người đó, xem ra không một ai trong nhóm chúng ta có thể gây khó dễ nổi, vậy thì ngươi…”
Ánh mắt nàng lấp láy, dường như đã bắt được sơ hở, nói, “Vậy thì ngươi cần gì phải nhờ đến sự trợ giúp của chúng ta cơ chứ? Muốn tìm một người thì cứ tự mình tìm là được. Xét ra thì… chẳng lẽ trên cơ thể ngươi còn có hạn chế gì đó? Bị thương? Thế thì chẳng qua ngươi đã là nỏ mạnh hết đà, giờ chỉ đang giở chiêu ra oai với bọn ta thôi đấy hả?”
Cũng không phải họ chưa từng gặp tà ma chỉ giỏi hư trương thanh thế, bởi vậy những lời của nàng tương đối thuyết phục.
Một số đệ tử tiếp tục siết chặt kiếm, cố gắng chú ý xem có sơ hở nào trên người Ô Hành Tuyết hay không thì nghe trả lời, “Không phải.”
Ma đầu nhìn họ với đôi ngươi đen thâm, nói, “Đó là vì ta chỉ biết giết người, không làm được những chuyện khác.”
Mọi người: “…”
Những lời Ô Hành Tuyết nói đều là sự thật, thế nhưng người ta nghe vào không khác gì một câu đe doạ. Không chỉ thế, lời đe doạ này vô cùng rõ ràng và tương xứng với ánh mắt hắn, hoàn toàn không giống một kẻ hư trương thanh thế.
Ông chủ quầy điên cuồng nháy mắt ra hiệu, song đệ tử nhà họ Phong vẫn chưa biết nên làm sao.
Mắt thấy Ô Hành Tuyết nhíu mày, dường như bắt đầu thiếu kiên nhẫn, cô nương trẻ nọ bèn nói, “Được, chúng ta tìm.”
Nàng rút ra mấy tấm giấy bùa có đóng con dấu của nhà họ Phong từ trong ngực, không buồn mượn tạm bút lông của chủ quầy mà quẹt ngón tay mình lên lưỡi kiếm rồi cất giọng hỏi với ngón tay lấm máu, “Tên người ngươi muốn tìm là gì?”
Lúc hai người vào tiệm, chủ quầy có hỏi tên và ghi lại trong hồ sơ của nhà trọ. Ông nhớ lại tên mà hai người cho hay vào lần đầu họ đến trọ ở chỗ mình và tính trả lời.
Thì nghe Ô Hành Tuyết nói, “Tiêu Phục Huyên.”
Chủ quầy ngậm miệng. “?”
Đệ tử nhà họ Phong lại há hốc miệng. “???”
Bầu không khí trong phòng im phăng phắc.
Một lát sau, chủ quầy lắp ba lắp bắp hỏi, “Hả?”
Rồi ông nói tiếp, “Lúc hai người đến nhà trọ đưa tên khác mà… tên này… tên này không phải tên của vị Thiên Túc thượng tiên ấy sao… vậy…”
Ông ta lí nhí lặp đi lặp lại với nét mặt rõ vẻ thảng thốt. Song điều này mới thực bình thường, ai nghe thấy việc Thiên Túc thượng tiên ở quán trọ nhà mình hai ngày cũng sẽ hoảng sợ như vậy thôi.
Thế nhưng có một khoảnh khắc nào đó, trong nỗi thảng thốt lại loáng hiện một cảm xúc khác, nó thoắt đến nỗi gần như chưa từng hiện ra ngoài.
Nhưng Ô Hành Tuyết vẫn thấy.
Cảm xúc ấy… là vui mừng?
Nhưng đó tựa chừng không phải hoan hỉ vui mừng, mà gần giống với chuỗi ngọc lưu ly bị bám bụi lâu ngày bỗng chốc vun vén linh hồn mà loé bừng lên một thoáng.
Ô Hành Tuyết nhớ lại một chút thì thấy ánh mắt ấy khá quen — nó gần giống như đôi mắt Y Ngô Sinh lúc nắm chặt vạt áo chàng trong sân nhà họ Hoa và kêu lên “Cứu tôi với”.
Lẽ nào ông chủ quầy cũng bị tà ma chiếm thân, khi nãy nghe thấy cụm “Thiên Túc thượng tiên” mới chợt lộ nguyên hồn trong nháy mắt?
Không đúng, trông ông ta không giống, vả chăng trên cơ thể ông ta cũng không có tà ma khí.
Vậy thì là chuyện gì?
Ô Hành Tuyết thầm thắc mắc. Chàng ngẫm lại những lời chủ quầy kể ban nãy, bất chợt phát giác ra một vấn đề vô cùng vô cùng tiểu tiết…
Chủ quầy nói rằng, sau khi viên thư sinh và thư đồng mắc nạn, ông ta nhớ đến những lời khuyên nhủ của người trong tiên môn và cho rằng quán trọ của mình quả thật là một vùng đất tai hoạ, từng tấc đất đều mang dáng vẻ ma mị. Cũng bởi thế mà ông thường xuyên gặp phải ác mộng, mất ngủ cả đêm.
Vì vậy, ông đã đến tìm tiên môn nhờ giúp đỡ.
Thoạt nghe qua, đây là những câu chữ rất bình thường, song giờ ngẫm lại có hơi kỳ lạ.
Nếu cuộc sống hàng ngày không an ổn, đến đêm còn trằn trọc khó ngủ, vậy vì sao ông ta không đổi sang một chỗ khác? Ông ta cam lòng đặt một cỗ quan tài rợn người trong nhà trọ, nuôi một con xác người không chắc có kiểm soát được mãi hay không, mà lại chưa từng tính đến chuyện chuyển sang một nơi khác.
Tại sao?
Vì ông không muốn đổi? Hay không thể đổi?
Ông tiếc nuối nhà trọ này? Hay vì một lý do nào đó mà không thể rời khỏi nơi này?
Ô Hành Tuyết nheo mắt.
***
Chủ quầy chỉ vừa chớp nhẹ mắt, bỗng thấy một cơn gió se lạnh lùa qua từ sau gáy. Ngay kế đó, mũi kiếm có thể chém lìa cọng tóc phất bay đã kề sát cổ.
Ô Hành Tuyết vừa tích tắc trước còn bắt giữ đệ tử nhà họ Phong mà giờ đã đứng sau lưng ông, tốc độ nhanh như một bóng ma.
Ông nghe Ô Hành Tuyết thấp giọng hỏi, “Khiếp sợ nơi này nhưng không rời khỏi nơi này… ông đang canh giữ cái gì à?”
Câu hỏi này tựa chừng đã khoét một lớp rách bên ngoài vỏ bọc phong kín.
Đôi mắt chủ quầy loé lên trong giây lát, cả cơ thể rung lên kịch liệt như thể vừa choàng tỉnh khỏi một giấc mơ thật dài.
Hàng mi ông run rẩy và đôi môi hé mấp máy, trông giống đang cố gắng nói ra chuyện gì đó, song đến cùng chỉ mím môi lại rồi lắc đầu một cách chật vật. Có vẻ như ông muốn nói mà bị một thứ gì đó ràng buộc nên không thể nói ra, thậm chí còn bị ép phải phủ nhận và đưa ra giải thích trái ngược.
Dù phản ứng như vậy cực kỳ bất thường, nhưng đã khẳng định suy đoán của Ô Hành Tuyết.
Lúc trước, chàng nghe chủ quầy kể trời trăng mây nước, còn tưởng rằng ông ta là kiểu người thích nói nhiều. Nào là cô bé kia ăn cha ruột mình, nào là thiếu gia ăn thư đồng mình, đều là những chuyện chỉ cần nói sơ vài câu là có thể giải thích đầy đủ, mà chủ quầy lại cố tình bắt đầu kể từ “lúc sân sau mọc tinh chất ngọc”.
Giờ ngẫm lại thấy hệt như ông đã cố tận lực trong giới hạn cho phép để kể cho người nghe ẩn ý sự việc sau những câu chữ mịt mờ mông lung rằng, khu đất này có điểm bất thường, nhưng tôi không cách nào đi được.
Ô Hành Tuyết hỏi tiếp, “Ông đang canh giữ một thứ gì đó hay một nơi nào đó?”
“Ai bắt ông canh?”
“Rồi cả…”
Liệu có phải Tiêu Phục Huyên ở đó hay không…
Chủ quầy căng thẳng, cố gắng hấp háy môi.
Có lẽ trong những năm gần đây, ông đã nói đi nói lại câu chuyện này cho rất nhiều người, song ai nghe thấy cũng khiếp sợ hãi hùng hoặc kiêng dè, chứ không một ai suy nghĩ sâu xa về nó cả.
Bây giờ, cuối cùng ông đã gặp được một người hỏi cặn kẽ những chuyện này, nên bất luận ra sao ông cũng muốn nói thêm chút nữa.
Chủ quầy cất giọng nghẹn ngào, rặn ra từng chữ một để hỏi Ô Hành Tuyết một câu, “Ngài có biết… vì sao nơi đây được gọi là… Lạc Hoa Đài…”
Ô Hành Tuyết ngẩn người, trong đầu cũng hiện lên một câu tương tự:
“Ngươi có biết, vì sao nơi đó có tên là Lạc Hoa Đài không?”
***
Đêm ấy là một đêm dài trên Tiên Đô.
Hôm đó, Linh Vương Ô Hành Tuyết cũng vừa hoàn tất công sự và quay về Toạ Xuân Phong, đuổi hai nhóc đồng tử loi nhoi đi nơi khác rồi cầm một vò ngọc tử, leo lên mái hiên ngọc cao cao trên nóc toà dao cung.
Sương mù bảng lảng bên mái hiên, chàng tựa một chân vào trong ấy, chẳng khác nào đang nghiêng mình bên mép một áng mây lững lờ.
Sau khi nhấp ba chung rượu, chàng bắt đầu cảm thấy lâng lâng muốn thiếp ngủ, bèn ngả lưng xuống mái, tựa đầu lên khuỷu tay, trên mặt vẫn đeo chiếc mặt nạ thường ngày.
Thế rồi chưa bao lâu sau, chàng nghe thấy tiếng động trên mái hiên ngọc, có vẻ vừa có người khác cũng bước lên đây.
Tiếng bước chân bắt đầu đi từ nơi khác trên mái ngọc, đến gần rồi dừng lại bên cạnh chàng.
Hồi lâu sau, chiếc mặt nạ bị người nọ nhấc lên đôi chút, không gỡ ra hoàn toàn mà chỉ nhấc nhẹ góc dưới cằm.
Và rồi, giọng Tiêu Phục Huyên vang lên trong màn đêm, “Ngươi uống rượu của ta.”
Nửa trên mặt Ô Hành Tuyết vẫn giấu sau chiếc mặt nạ, chàng cũng lười nhúc nhích, bèn không màng mở mắt đã ôn tồn trả lời nhỏ nhẹ, “Sao ngươi ngang ngược thế, ta có đến tận ba vò ngọc tử, hai vò trong đấy là của ta, chỉ có một vò lấy chỗ ngươi thôi. Làm sao ngươi biết ta uống vò nào.”
Tiêu Phục Huyên đáp, “Ngửi được.”
Gió đêm trên Tiên Đô thổi vào bên tai làm người ta thấy nhồn nhột, mặt nạ cũng có hơi khó chịu, bởi thế mà Ô Hành Tuyết híp khẽ mắt.
Chàng ngồi dậy, gỡ mặt nạ ra rồi đưa vò rượu cho người bên cạnh. “Trả ngươi nè.”
Tiêu Phục Huyên không nhận, chỉ nói, “Lần sau trả ta một vò nguyên.”
Ô Hành Tuyết liếc y một phát, đoạn gõ tay lên mái hiên ngọc. Hai nhóc đồng tử nhảy phót ra từ trong nhà, đứng dưới mái hiên và ngước mặt lên hô: “Thưa đại nhân, ngài cần phân phó điều gì ạ?”
Ô Hành Tuyết nói với chúng, “Lấy một vò ngọc tử đến cho ta, Thiên Túc bảo ta trả lại.”
Hai nhóc nọ gom tay áo, đồng thời đưa mắt nhìn sang Tiêu Phục Huyên, chân truyền một thói sắc lẻm như đại nhân nhà chúng, nói, “Đường đường là Thiên Túc mà sao bủn xỉn thế.”
Ô Hành Tuyết huơ chân cười nắc nẻ.
Tiêu Phục Huyên rủ mắt nhìn hai đứa nhỏ kia, cất giọng thản nhiên, “Còn hùng hồn thêm nữa thì dọn sạch Nam Song Hạ chỗ ta.”
“…”
Đồng tử cứng họng, không đáp trả được gì bèn co giò bỏ chạy.
Ô Hành Tuyết xét thấy trả nửa vò cũng là trả, bèn rót ba ly cho Tiêu Phục Huyên.
Đến khi Tiêu Phục Huyên uống cạn chén rồi, mới thấy Ô Hành Tuyết chỉ một vùng sơn dã nào đó dưới nhân gian và nói, “Dường như Lạc Hoa Đài đã lên đèn, hôm nay là mùng ba tháng ba ư?”
Tiêu Phục Huyên: “Ngươi hỏi lịch nhân gian à?”
Ô Hành Tuyết đáp, “Ừm, ắt là thế, phố núi kia lên đèn khai trương mỗi mùng ba tháng ba, nơi ấy nhộn nhịp sôi động lắm, đôi khi ta cũng tình cờ ghé xem.”
Tiêu Phục Huyên nhìn ánh đèn le lói theo hướng tay Ô Hành Tuyết chỉ, y cũng hơi có ấn tượng với nơi ấy bởi trước đây tình cờ lên rặng núi nọ, thế nhưng thời điểm đó không đúng dịp nên chưa có cơ hội trông thấy chợ phiên phố núi.
Ô Hành Tuyết nhìn nơi ấy một lát mới nói, “Ngươi có biết, vì sao nơi đó có tên là Lạc Hoa Đài không?”
Tiêu Phục Huyên quay sang nhìn chàng. “… Vì sao?”
Ô Hành Tuyết nói, “Rất lâu về trước, trước khi có cả Linh đài, ở đó có một cây thần mộc, sinh trưởng nơi nào sẽ mọc ra tinh chất ngọc ở nơi ấy, lúc cánh hoa rơi sẽ rải dài suốt mười hai dặm, từ đấy có tên Lạc Hoa Đài. Bây giờ ở nơi ấy vẫn còn sót một ít tinh chất ngọc.”
Nhiều vị thần tiên từng nghe qua câu chuyện về thần mộc rồi, nhưng số người thật sự biết được thì rất ít ỏi. Nghe đồn cây thần nọ kiến hiệu khởi tử hoàn sinh, và cũng có lời đồn rằng chuyện đó không đúng. Chỉ có một tin đồn xưa giờ chưa từng thay đổi là từ sau khi Linh đài xuất hiện thì cây thần không còn trên đời nữa, nó biến mất hoàn toàn như thể chưa từng tồn tại.
Để rồi về sau, đôi khi người đời lại thắc mắc không rõ từ đâu một nơi vắng cây thiếu hoa và nổi tiếng với chợ phiên phố núi lại có tên “Lạc Hoa Đài”.
Tiêu Phục Huyên liếc nhìn Ô Hành Tuyết và hỏi, “Vậy vì sao ngươi biết nguồn gốc của Lạc Hoa Đài?”
Ô Hành Tuyết đáp, “Bởi trước đây ta sinh ra ở nơi đó.”
***
Nhờ câu hỏi của ông chủ quầy, Ô Hành Tuyết mới nhớ lại một vài mảnh nhỏ linh tinh về Lạc Hoa Đài, để rồi liên tưởng đến tinh chất ngọc bất chợt mọc ra ngoài sân sau quán trọ…
Chàng lập tức biết thứ đang được canh giữ ở nơi đây là gì, và cũng biết Tiêu Phục Huyên đang ở đâu.
Có lẽ cây thần mộc kia không biến mất hoàn toàn, mà vì một nguyên nhân nào đó đã dẫn đến việc Thiên đạo Linh đài phong ấn nó lại.
Chàng chưa biết Tiêu Phục Huyên bị kéo vào đấy bằng cách nào, nhưng có thể đoan chắc nếu bây giờ muốn vào trong phải tìm bằng được cửa vào khu cấm địa kia.
Ô Hành Tuyết bất chợt ngước mắt, hỏi chủ quầy, “Rãnh đá chỗ mọc ra cành ngọc trong nhà ông nằm ở đâu?”
Nếu tinh chất ngọc xuất hiện ở nơi có thần mộc, vậy đi tìm chỗ có cành ngọc chắc chắn không lệch được.
Chủ quầy khàn giọng trả lời, “Trong sân.”
Sân nhà trọ này cũng được xây làm ba tầng tựa lưng vào núi, tạo thành một vòng tròn bao quanh một nửa gian nhà khách.
Tầng một đặt một cái giếng, bên trên có giàn che nắng và xung quanh là vách núi. Ở hai tầng còn lại trồng một vài loại cây cầu phúc lành và cát tường, bên dưới tàng cây cũng đặt vào vách núi.
Trong sân vườn to rộng đến vậy, nơi nơi chất đủ loại đá tảng, đá phiến, và đâu đâu cũng thấy rãnh đá.
Song, chàng nhất định phải tìm bằng được vị trí chính xác nhất, bởi cấm địa được tạo ra để người khác khó nhận thấy thì chắc chắn lối vào của nó không lớn.
Ô Hành Tuyết lia mắt bao quát một vòng rồi hỏi chủ quầy, “Rãnh đá ở phía nào?”
Ông chủ quầy duỗi ngón tay chỉ về bên trái, Ô Hành Tuyết thoáng nhìn theo hướng ông ta chỉ rồi nhanh chóng ngoảnh đầu bỏ đi theo chiều hoàn toàn ngược lại.
Ông chủ quầy: “…”
Nơi đó là cấm địa, và chủ quầy bị áp đặt nhiều hạn chế, đến nói còn không nói ra được. Thế thì phương hướng ông ta chỉ dĩ nhiên là hướng sai.
Trong trường hợp chỉ sai hướng như vầy, hẳn nhiên muốn đưa người đi càng xa càng tốt. Vậy nên dù chủ quầy không nói thẳng ra miệng được thì Ô Hành Tuyết cũng có thể dựa theo lời ông ta mà tìm đúng đường.
Sau khi đi được một lúc, chàng lại hỏi chủ quầy lần nữa.
Lần này, chủ quầy ngừng lại một chút rồi mới chỉ về hướng đông nam.
Ông ta những tưởng người kia sẽ đổi hướng đi sang phía tây bắc, ngờ đâu lúc này Ô Hành Tuyết lại tin lời ông. Chàng chuyển hướng đi theo đúng vị trí ông ta chỉ và rẽ về phía đông nam.
Chủ quầy: “…”
Cứ đi vài chập như vậy, ông chủ quầy sắp uất nghẹn tới nơi, còn Ô Hành Tuyết lại canh hướng hoàn toàn chính xác.
Cuối cùng, chàng dừng chân ngay bên rìa một đống đá vô cùng kín đáo không bắt mắt.
Trông nó bình thường như những mảng tường chịu dông bão gió mưa lâu ngày nên sụp xuống thành đá, nằm ngổn ngang trong một góc mà không ai dọn dẹp, đâm ra bám đầy rêu phong, gần như không thấy được khe hở.
Ô Hành Tuyết giơ tay sờ lên bức tường bị nứt nọ, ngoái đầu hỏi mấy đệ tử nhà họ Phong, “Các vị có thể khoét một lỗ ở chỗ này được không? Làm cách nào đỡ ồn ào nhất ấy.”
Mấy đệ tử nhà họ Phong nhìn nhau, dường như họ hãy còn bị chấn động trước thông tin người bị mất tích là Tiêu Phục Huyên, đến tận giờ vẫn chưa hoàn hồn. Đặc biệt là cô nương thủ lĩnh. Trong tay nàng còn cầm mấy tấm phù tìm hồn chưa kịp viết tên Tiêu Phục Huyên, và giờ cũng không cần dùng đến nữa rồi.
Nghe Ô Hành Tuyết hỏi vậy, nàng sững sờ giây lát mới kịp phản ứng và nói, “Có thể thử, nhưng nhỡ không mở ra được thì sao?”
Ô Hành Tuyết nhìn họ và trả lời, “Thì ta cũng chỉ đành náo động hết mức có thể thôi.”
Chỉ cần ra tay xé thật mạnh, đến thời điểm ảo cảnh bị lung lay sắp sụp thì chính những nơi được bảo hộ chắc chắn nhất là những nơi trông bất thường nhất.
Ô Hành Tuyết càng nghĩ càng thấy biện pháp này vô cùng khả thi, bèn muốn ra tay ngay lập tức.
Chỉ trong nháy mắt, mây đen ùn ùn gào thét ùa về khắp bầu trời tối thăm thẳm trên phố núi Lạc Hoa, sấm sét rền vang, một nửa bức tường sụp kia cũng bắt đầu rung lắc dữ dội tưởng chừng như hàm răng đánh lập cập không thể kiểm soát trong cơn rét cùng cực.
Ngón tay trắng nhợt lạnh như băng của Ô Hành Tuyết đã cong lên.
Khí kình cuồn cuộn trong người đang muốn điên cuồng trào ra bên ngoài, chàng bất chợt cảm thấy có một bàn tay vươn ra từ giữa màn sương mù núi thẳm và nắm lấy tay mình.
Chàng ngẩn ngơ thốt, “Tiêu Phục Huyên?”
Ngay sau đó, những ngón tay cong lên căng cứng của Ô Hành Tuyết thả lỏng ra.
Sương mù dày đặc ập vào mặt — chàng bị bàn tay nọ kéo vào cấm địa.
Lời tác giả:
QAQ