“Cô có chuyện gì mà bận thế?”
“Cô ba đúng là cô dâu thảnh thơi nhất thiên hạ này. Mọi chuyện lớn nhỏ về tiệc cưới, tiệc thế nào khách mời những ai, cần váy cưới kiểu gì, cũng không thấy hỏi đến.”
Sở Vọng đút miếng sủi cảo tôm vào miệng, chỉ cười không nói.
Bà Cát vẫy tay: “Lại đây, xem bộ váy buổi chiều mặc sau khi rời nhà thờ có nên dùng xếp ly to không?”
Đến chương trình hôn lễ của mình thế nào Sở Vọng cũng không biết, nên chỉ đáp qua loa: “Ừm, được ạ được ạ.”
Một người thợ may cười nói: “Xếp ly nhỏ thì sẽ đẹp hơn.”
Bà Cát bảo: “Kiểu dáng đó của mười mấy năm trước rồi mà?”
“Bởi vì đã tám chín năm không còn thịnh hành, nên giờ mới là lúc nổi lên.”
Bà ngẫm nghĩ rồi vẫn lắc đầu: “Không được. Váy xếp ly nhỏ thách thức vóc dáng lắm, phải bước khoan thai thì mới khiến váy nhúc nhích nhẹ. Con bé nhà tôi ấy à, sợ đến lúc đó bước đi lại thành sóng to cuồn cuộn, bị người ta cười thúi mặt mất.”
Sở Vọng ấm ức: “Không phải váy xếp ly nhỏ dùng để mặc lúc nhảy nhót khiêu vũ à, như thế mới đẹp chứ?”
Người trong phòng cười to.
Bà Cát chỉ hận không thể rèn sắt thành thép: “Tụi nhỏ các cháu là may mắn lắm rồi đấy. Hơn mười năm trước khi bọn cô còn trẻ, mặc áo cưới giày thêu đi vào nhà chồng, trên đỉnh đầu còn đặt một bát nước, không được phép làm đổ. Nhất là người Quảng Đông, mấy chục người chị em dâu đều chờ nhìn chê cười.”
Sở Vọng cười nói: “Cháu không sợ. Chẳng lẽ liên quân tám nước cũng hiểu được tập quán cũ trong nước ta hả?”
Bà Cát trợn mắt, lại nói tiếp chuyện năm xưa: “Mười năm trước, con gái không được phép xuất đầu lộ diện, cử chỉ cũng phải đoan trang chứ không như bây giờ. Hai mươi năm trước khi mẹ cháu gả vào cửa, cô cũng trốn một bên nhìn lén. Chị ấy mặc váy xếp ly mỏng như sợi tóc, ở tua rua trên áo thắt bốn năm chiếc chuông nhỏ; gót vàng mấy tấc, mỗi lúc bước đi, tiếng chuông ngân như có như không. Đó mới thật sự là đoan trang khéo léo, ra hình ra dáng. Phụ nữ ngày đó vẫn tuân theo lệ cũ, nhưng đàn ông đọc sách mấy năm lại có khiếu thẩm mỹ cách tân, thực đúng là đáng tiếc.”
Tuy thời đại bây giờ đã tiến bộ, nhưng dù ở đâu thì quy củ phép tắc vẫn do nam giới định đoạt, thật không công bằng.
Tụt lại phía sau ắt sẽ chịu đòn. Chẳng trách thời dân quốc có nhiều đàn ông tệ bạc, cũng có nhiều người phụ nữ oán trách. Đương nhiên cũng không thiếu những cô gái độc lập mạnh mẽ nhìn rõ thực tế.
Chẳng mấy chốc, người đàn ông “từng đọc sách mấy năm” đã tới cửa viếng thăm.
Mật Thu vào báo lại với bà Cát, bà chỉ khoát tay, “Bảo ông ta đợi đi.”
Đợi mấy người thợ may rời đi, bà mới bảo Mật Thu dẫn Lâm Du vào phòng khách, cũng nhất quyết kéo Sở Vọng đi cùng.
Lâm Du tới, trông ông ta vẫn như cũ, quái bào là lược thẳng thớm, tuổi tác bốn mươi có ba nhưng vẫn phong độ chín chắn, chắc hẳn hồi trẻ cũng là một người điển trai.
Sở Vọng và bà Cát mỗi người chiếm một chỗ trên ghế sofa nhung.
Lâm Du đứng giữa phòng khách, ánh mắt tán thưởng rơi lên người Sở Vọng, như thể bồi dưỡng nên một cô con gái xinh xắn có sự nghiệp là công lao của ông ta vậy.
Mật Thu biết cần phải im lặng, vì vậy cũng không hỏi ông ta muốn uống trà gì.
Lâm Du cũng chẳng buồn đoái hoài, chỉ chợt nói: “Con giống mẹ con hồi đó đến năm phần.”
Bà Cát cúi đầu không tiếp lời.
Lâm Du hít một hơi sâu: “Gả cho cha là chuyện hồ đồ nhất trong đời bà ấy.”
Bà Cát ngẩng đầu lên, cười nói, “Nói đi, muốn bao nhiêu tiền?”
“Lâm Cẩn, tôi không phải là ăn mày.”
“Không cần? Không cần thì xin về cho. Cháu gái nhà tôi đang bận chuẩn bị hôn lễ, không có thời gian ngồi nói chuyện với ông. Mật Thu, tiễn khách.”
“Đợi đã!” Lâm Du ngồi xuống.
Bà Cát cười cười.
“Cũng phải có người dắt tay đưa con bé vào nhà thờ…” Lâm Du bình tĩnh nói.
Sở Vọng nghĩ ngợi, đúng thế, sao lại quên mất chuyện quan trọng này nhỉ?
Nhưng bà Cát đã cắt luôn cảm xúc của ông ta, chỉ vào đồng hồ treo tường ở sau lưng, “Tôi cho ông thêm ba phút nữa là cùng, đã hết thì không còn lần sau đâu.”
Sở Vọng thấy Lâm Du siết chặt nắm đấm, gân xanh hằn lên mu bàn tay, đứng dậy quay đầu rời đi.
Đứng ở cửa năm giây, rồi ông ta ngoái đầu lại, mở miệng nói: “Hai.”
Bà Cát cười bảo: “Hai trăm ngàn cũng không phải là con số nhỏ. Bé ba, tiền lương một tháng của cháu bao nhiêu, có dư tiền tiêu vặt để cứu người cha này của cháu không?”
Cô ngẩn người, rồi lập tức nói: “Có ạ có ạ.” Vừa nói vừa lôi ví tiền ra.
Lâm Du nói ngay: “Hai mươi ngàn. Trong nhà thật sự không xoay vòng nổi tiền.”
Bà Cát sung sướng bật cười, hất cằm với Tuệ Tế. Một lúc sau, cô ấy cầm một túi tiền lớn đưa cho bà Cát. Bà Cát tháo dây cột miệng túi ra, dốc ngược túi xổ hết mấy đồng xu in hình Tôn Trung Sơn xuống tấm thảm đen đỏ.
Lâm Du đứng chôn giữa trong đống tiền, nhìn Lâm Cẩn chằm chằm với vẻ không tin nổi.
Sở Vọng thở dài, có lẽ cảm thấy nếu cứ đứng ở đây sẽ khiến ông xấu hổ không nhặt được tiền, thế là rất chu đáo đứng dậy đi ra ngoài.
Cô nghe thấy bà Cát ở sau lưng nói: “Đợi đến ngày giỗ 16 năm của mẹ con bé, dẫn vợ ông đến mộ chị ấy nghiêm túc dập đầu hai mươi cái. Số tiền còn lại tôi sẽ chuyển đủ vào tài khoản của ông.”
Khi cánh cửa khép lại, Lâm Du ngồi xuống, chật vật nhặt từng đồng tiền một cho vào trong túi.
Bà Cát nhìn ông, hờ hững nói: “Năm xưa vì chuyện hôn sự mà tôi đã quậy nhà họ Kiều một trận tơi bời, về nhà bị đánh một trận. Để xin tha cho tôi mà chị ấy đã quỳ trong phòng ông một đêm, còn ông chỉ biết hả hê đắc thắng. Nhưng có lẽ ông không biết, sáng hôm sau chị ấy vào phòng tôi đút thuốc, vì làm liên lụy chị ấy nên tôi xin lỗi mãi, nhưng chị ấy chỉ sờ trán tôi nói: “Quỳ một đêm thì có sao. Dưới đầu gối đàn ông có vàng, còn phụ nữ thì không. Biết yếu thế và không biết xấu hổ, thời đại này chỉ tốt với phụ nữ ở điểm đó. Chị không giống em, thế đạo đã trói buộc chị trong căn nhà này. Còn em nhất định phải ra ngoài, nếu có người cho em con đường sống thì dù có chui qua dưới háng người kia, em cũng phải làm. Để sau này còn cho bọn họ biết, cảnh tượng vàng dưới gối vỡ nát trước mặt em là như thế nào’.’”
Mười phút sau, lúc Sở Vọng đang ngồi uống trà chanh Lipton ở trong vườn, cô thấy Lâm Du trầy trật xách túi tiền rời đi.
Bà Cát đi tới cạnh cô, ngồi xuống hỏi: “Con người này, lúc tới thì áo quần tươm tất muốn nắm tay con gái dắt vào nhà thờ, lúc đi lại dắt thêm đuôi chồn hốt hoảng chạy trốn. Cháu xem ông ta có xứng không?”
Sở Vọng nhìn một hồi rồi hỏi, “Vì sao cô lại cho ông ta tiền?”
“Không cho ông ta, chẳng lẽ chờ ông ta đến đòi anh cháu? Lương của chính phủ hiện tại có được mấy đồng? Nó đã không mở miệng đòi nhà chuẩn bị sính lễ thì thôi, vợ chồng mới cưới cũng không dễ dàng gì, hai mươi ngàn này, coi như cô bù cho nó.”
Sở Vọng nhớ lại hồi mới tới Thượng Hải, hình như Lâm Tử Đồng cũng nói với cô gì mà “nợ cha con trả”, lòng cảm khái bà Cát đúng là ân oán rõ ràng.
Nhưng có điều cô nghĩ vẫn không hiểu, “Vì sao ông ta thà mất mặt ở chỗ cô chứ không đến chỗ bà Kiều xin tiền?”
“Đơn giản là vì hai chị em họ có chung bí mật của ông ta hồi còn trẻ, chuyện đó làm ông ta hối hận suốt đời, còn quan trọng hơn chuyện mất mặt ở chỗ cô nhiều.”
Là chuyện gì thế?
Nhưng dù là chuyện gì, thanh cao tới mấy cũng phải cúi đầu trước đồng tiền, tôn nghiêm của người lối mới đã bị phụ nữ phái cũ chà đạp.
“Nhưng vì sao bà Kiều lại khư khư giữ chặt số tiền đó như vậy?” Cô vẫn không hiểu.
Bà Cát nhìn cô, đoạn nói: “Đàn ông gia đình truyền thống đều có tam thê tứ thiếp, nên phụ nữ phải giữ được quyền lực, mà tài sản chính là quyền thế lớn.”
Sở Vọng ngoẹo cổ gật đầu. Từ khi gả đi bà Kiều luôn ôm khư khư kho tàng của mình, chỉ vì bà biết rõ người chồng mình giành được đây không thể cho bà cảm giác an toàn suốt đời. Cuối cùng muốn an toàn vẫn phải dựa vào tiền.
Có điều thủ đoạn thật đáng lo ngại, không biết đã bị bà Cát bỏ ra mấy chục ngàn mua đứt đại lộ Queen’s, lại còn không gióng trống khua chiêng.
Nhưng rồi hai cô cháu lại buồn bã nghĩ: rốt cuộc ai sẽ dắt tay cô, trao cô cho Tạ Trạch Ích đây?
Cách tốt nhất là nhận một người có máu mặt lẫn tài đức vẹn toàn làm cha nuôi. Nhưng trong số mấy người bà Cát quen, đếm tới đếm lui cũng không ai hợp với bốn chữ “tài đức vẹn toàn”, thật sự khiến bà đau đầu.
Trong lòng Sở Vọng đã có một cái tên. Có điều cô không biết có thích hợp không, trừ khi đích thân cô đi mời.
Mấy hôm sau, hai cửa tiệm lâu đời mà các cô các bà nhà giàu Thượng Hải thích ghé đến là Thục Du và Phẩm Phân đồng loạt thông báo: một tháng tới mọi thợ may trong tiệm đã được cô ba Lâm mời làm thợ riêng, phải một tháng sau mới có thể tiến hành làm đơn đặt hàng của mọi người.
Sau khi gửi thiệp mời đi, mọi người ở biệt thự họ Cát cũng bắt đầu đi thuyền, trước khi vào đông đã quay về khu vực nhiệt đới ấm áp.
Không ít người tề tựu ở biệt thự trước ngày khởi hành để tiễn biệt và chúc mừng bà Cát.
Trong số họ có lấy cớ đến chúc mừng cô dâu để kết thân với bà Cát, hoặc là có người không nén nổi tò mò muốn nhìn trước cô dâu nhà họ Tạ kiêm người đoạt giải Nobel, đại tiểu thư có một không hai ở đầu thế kỷ 20.
Bà Cát không có hứng mượn cơ hội này để cô thể hiện tài năng trong giới thượng lưu Thượng Hải. Sở Vọng cũng lười không muốn xã giao khách sáo, thế là dứt khoát nhốt mình trong phòng.
Sở Vọng nằm trên giường, lúc đang cầm vở trằn trọc nghĩ xem nên viết bản kiểm điểm để đưa cho Từ Thiếu Khiêm như thế nào thì Di Nhã đẩy cửa đi vào.
Cô nàng chớp mắt, thở hắt ra, “Danh tiếng gớm nhỉ đại khoa học nhà ta!”
Sở Vọng ném vở sang một bên, cũng chớp mắt nói, “Cái gì? Danh tiếng gì?”
“Không ai trong giới thượng lưu Thượng Hải bây giờ là không biết cô dâu một ngày mặc đến hơn bảy bộ đồ.”
Sở Vọng ngạc nhiên, “Hả, thế thì sao mà thay cho kịp?”
“Quần áo trang sức chính là danh tiếng của con gái, nhiều hơn cũng không thiệt hại gì. Có dì Cát lo cho cậu rồi, cậu không cần phải lo.” Di Nhã cười to.
Sở Vọng nhớ Di Nhã không có chuyện gì thì sẽ không tìm đến, thế là lập tức tra hỏi: “Có biến gì hả? Thành thật khai mau.”
“Không ngoài dự đoán, e là Doãn Yên cũng phải kết hôn rồi.”
“Ớ? Với ai?”
“Một thủy binh hạ cấp.”
“Ồ, thế cũng tốt mà!” Sở Vọng đáp.
“Không biết người ở đâu, lăn lộn ở Thượng Hải hai ba năm rồi được chức hạ úy. Da dẻ đen thui, tự xưng là đến từ Anh. Có điều ngài Tưởng kiểm tra rồi, 70% là huyết thống Ấn Độ, chắc được người Ấn đến từ vùng thuộc địa. Ngài Hoàng đã nhờ người cứu Trịnh Diệc Dân rồi. Dì Cát có gọi Doãn Yên đến nói chuyện một lần, nói là nếu nó đồng ý thì dì ấy vẫn có cách để Trịnh Diệc Dân cưới nó. Nhưng nó không chịu, cho rằng dì Cát không thừa nhận điểm tốt của nó mà đang hại nó. Còn nói đến như Chân Chân mà Chers còn để ý, thì vì sao nó không thể gả cho người nước ngoài được? Lại còn đắc ý nói người Anh kia chịu cưới nó, sau khi kết hôn sẽ cho nó đi Anh du học.” Di Nhã thở dài.
Sở Vọng nghe thế, lấy làm ngơ ngác.
Suy nghĩ của bà Cát là, không phải thế hệ sau luôn vô tội, nhưng ân oán của thế hệ trước không liên quan gì đến họ, có thể giúp được thì cứ giúp.
Nhưng con người ta trưởng thành, ngoài chịu sự ảnh hưởng của hoàn cảnh và cách dạy dỗ ra thì gen do người mẹ cung cấp vẫn chiếm tỷ lệ lớn. Ví dụ như đến 90% ý thức và kiểm soát cảm xúc là ảnh hưởng từ gen của mẹ —— trích từ nhiều tạp chí tế bào học cô từng đọc ngày trước.
Còn về phần vì sao Sở Vọng ở đời trước từ chối bà Cát, khăng khăng đòi đi châu Âu với Ngôn Tang —— khéo cũng có liên quan đến vấn đề di truyền.
“Nếu có thể lợi dụng được đàn ông thì tuyệt đối không cần phải dựa vào hai tay mình.” Thật tiếc cho một phen tâm huyết của Lâm Du.
“Đúng là cái đồ không có mắt nhìn, không biết trên đời này có bao nhiêu cô gái chờ xếp hàng để được dì Cát bồi dưỡng, có hội ngàn năm có một.”
Sở Vọng cười cười nhìn cô ấy.
“Có lúc mình nghĩ, không biết dì Cát có lúc cũng muốn dựa dẫm vào đàn ông không.”
“Không biết. Nhưng có lẽ cô có tiêu chuẩn chọn đàn ông riêng, chắc chắn không liên quan đến tiền tài gia thất.”
Phụ nữ ở thế kỷ 19 khi kết hôn thường nhìn vào học thức ăn nói tiền tài, còn bản thân phụ nữ ở thế kỷ 21 đã có học thức ăn nói, cũng có thể tự nuôi được mình, thế thì cần gì những điểm đó ở đàn ông nữa? Có lẽ cũng như đàn ông tìm bạn đời trong mấy ngàn năm qua thôi, chọn người có vẻ ngoài đẹp trai, vóc dáng ưa nhìn, đợi đến khi da bọn họ bắt đầu nhăn nheo, đường chân tóc lùi về sau thì vứt bỏ họ, đi tìm tình yêu mới, giống hệt đàn ông bạc tình bạc nghĩa từ xưa đến nay, âu cũng là điều dễ hiểu.
Cô của thế kỷ 21 cũng đã từng nghiêm túc phân tích quan điểm về hôn nhân của những người phụ nữ lớn tuổi xung quanh mình, thế thì bà Cát ở thế kỷ 20 cũng không hẳn là không thể.
Di Nhã nhanh trí, lập tức cười hỏi: “Ví dụ như?”
“Có lẽ già rồi, chúng ta có thể cùng cô út đi ra bờ biển ngắm nhìn những cơ thể trẻ trung.”
“Đi đâu nhìn?”
“Vịnh Repulse?”
Di Nhã bật cười, lao tới quấn lấy cô nhốn nháo một hồi, rồi nằm ngã vật ra giường bảo, “Nói thật, có lúc mình rất ghen tị với cậu. Từ nhỏ mình đã có hai điều thắc mắc, thứ nhất là không biết cô gái như thế nào sẽ được dì Cát đích thân dạy dỗ, thứ hai là không biết cô gái như thế nào có thể gả cho anh mình. Cậu thì hay rồi, chiếm luôn cả hai.”
Sở Vọng chỉ vào mình, cười nói: “Mình không xứng hả?”
“Lại còn có thể lừa cha mình đem căn nhà ở Shek O làm nhà tân hôn cho cậu nữa chứ. Cậu không biết đâu, cảnh biển và vườn hoa chỗ đó là đẹp nhất trong số bất động sản của ông ấy đấy.” Di Nhã lau nước mắt chảy ra vì cười, “Nằm trên giường ở trong phòng ngủ là có thể nhìn thấy trai đẹp mặc đồ lặn ở trên bờ.”
Sở Vọng cười to: “Sau này sẽ rủ cậu và Chân Chân đến nằm chung để ngắm.”
“Gì chứ gì chứ.” Di Nhã sẵng giọng, “Chờ sau này làm gì? Đợi mấy hôm nữa đến Hương Cảng, vừa hay không ai dẫn cậu đi xem sính lễ, mình xung phong nhận việc, lập tức dẫn cậu đến vịnh Repulse ngắm cảnh biển và trai mặc đồ lặn.”
“Ớ, vì sao lại là vịnh Repulse?”
“Vịnh Repulse cũng có một căn —— hôn lễ tổ chức ở Shek O, bài trí thành phòng tân hôn.” Cô nàng thở dài, “Cha thiên vị thật chứ, đích thân con gái xin lên xin xuống mà cũng chỉ xin được một căn ở Shek O làm của hồi môn.”
Thấy cô nàng ảo não, Sở Vọng an ủi: “Không sao, đợi mấy chục năm nữa, vịnh Repulse không đẹp bằng Shek O đâu.”
Ô nhiễm công nghiệp và cải tạo ngoài khơi đã lấp biển đi. Đầu tiên là Châu Âu và Hoa Kỳ trong những năm 1940 1950, rồi Hương Cảng trong những năm 1970 và 1980, cuối cùng là đại lục trong thế kỷ 21.
”Làm gì có chuyện đó được? Vịnh Repulse mãi mãi là vịnh Repulse.” Di Nhã mơ màng, cũng không đoái hoài đến câu an ủi của cô. Một lúc sau lấy lại tinh thần, hỏi: “Cậu không biết hôn lễ tổ chức ở Shek O à?”
“Ồ! Giờ biết rồi đây.”
“Trên đời này không có cô dâu nào như cậu cả, thảnh thơi gớm!”
Việc gì phải gấp gáp? Cô và Tạ Trạch Ích cũng chỉ tranh thủ tổ chức hôn lễ thôi mà, coi trọng quá làm gì.
Hai người cười đùa một hồi, một lúc sau chợt nghe thấy tiếng động đi lên cầu thang từ vườn hoa bên dưới. Bình thường giờ này cửa sắt đã được khóa, không biết là gió lay động hay có con thú nào lẻn vào sân.
Di Nhã đứng sát cửa sổ, ngẩng đầu lên nhìn rồi lập tức che miệng cười: “Ây da, là một con mèo.”
Cô đứng dậy đi ra mở cửa, ngồi xổm xuống nhìn quanh nhưng cũng không thấy mèo đâu.
Ngoái đầu lại thì Di Nhã đã đi ra khỏi phòng mất rồi.
Tuệ Tế đứng bên ngoài cao giọng hỏi: “Có cần tôi ra đuổi giúp cô không?”
Di Nhã cười nói: “Cô ấy thích mèo lắm, cứ để cô ấy chơi một lát.”
Cô ngạc nhiên ngoảnh đầu lại. Một bóng đen xuất hiện từ cầu thang bên ngoài phòng, đứng thẳng cạnh giàn nho và cây leo, đôi mắt đen trắng rõ ràng nhìn xoáy sâu vào cô, người khác chắc chắn sẽ không có đôi mắt như vậy.
Cô cười nói: “Ồ, đúng là mèo thật.” Động vật họ mèo cao 6,2 feet*.
(*Tương đương 1m87.)
Tiếng dương cầm và tiếng cười nói ở bên dưới dần vang lên, tựa như truyền đến từ một tòa tháp cao.
Tạ Trạch Ích từ từ lại gần.
Cô cười nói, “Hi quý ngài.”
Anh cũng nổi hứng đùa, “Hi quý cô.”
“Là cô Tạ thưa anh.” Cô sửa lời, lại hỏi: “Xin hỏi anh đến tìm ai?”
“Dám hỏi bây giờ là mấy giờ rồi?”
Cô quay đầu lại, xuyên qua cửa kính có thể nhìn thấy đồng hồ treo trong phòng. Cô cười đáp như thật: “Chín giờ mười lăm phút..”
Tới khi xoay đầu lại lần nữa thì Tạ Trạch Ích đã lặng lẽ đến gần, ép cô đến bên cửa kính.
Cô cúi đầu, tay chống lên ngực anh, cười nói: “Thưa anh, trong nhà tôi có quy củ, anh làm thế là không thích hợp.”
Tạ Trạch Ích không có vẻ lùi lại, mà còn cúi thấp người, chóp mũi gần như chạm vào mũi cô, “Vậy thì, cô Tạ có để bụng chuyện hôn môi với người đàn ông xa lạ vào lúc chín giờ mười lăm phút không?”
“Anh nhà tôi mà biết thì có lẽ sẽ cầm súng bắn thủng đầu anh mất.” Sở Vọng dè dặt di chuyển, không cẩn thận chạm vào cửa kính sau lưng, lúc cô vừa lùi về phía sau thì cánh cửa lập tức đóng lại cái *sầm*.
Cô giật mình kêu lên, mất trọng tâm nên ngã về sau.
Tạ Trạch Ích lập tức đỡ lấy đầu cô, rồi anh tự nhiên ôm eo cô kéo cô áp vào người mình, quấn cô trong vòng tay, đè lên cửa kính rồi hôn ngấu nghiến.
Bên ngoài có người gõ cửa, Mật Thu hỏi, “Cô ba, có chuyện gì thế? Vẫn ổn chứ?”
Ở dưới lầu cũng có giọng nam xa lạ ân cần hỏi: “Cô ba Lâm, nghe nói có mèo lẻn vào, có cần giúp gì không?”
Cô mở to hai mắt, rất sợ ở trên lầu hay dưới lầu có người nhìn thấy cảnh này.
Phát giác cô xuất thần, Tạ Trạch Ích bấm vào eo cô, cô vừa há miệng thì nhân đó hôn sâu hơn. Mọi tiếng la hét hoảng loạn vỡ tan thành tiếng thở hổn hển yếu ớt trong nụ hôn cháy bỏng này. Nhiệt độ và mùi hương trong miệng cô đã khiến anh mê muội, lần nào hôn cũng quấn lấy không thể tách rời.
Nhìn thì cứ nhìn đi, cô cũng đang ở trong nhà mà! Hôn nhân thân mật! Hợp pháp!
Ở ngoài phòng và bên dưới vẫn có người thấp giọng quan tâm hỏi, còn cô dựa lưng vào cửa kính lạnh băng nghĩ như vậy.
Cô cảm thấy khó thở, ngay đến ý thức cũng đã tan rã, lập tức đưa tay véo vào hông anh tỏ vẻ kháng nghị.
Tạ Trạch Ích không nhịn được cười, buông cô ra, ngón trỏ gõ nhẹ vào đầu cô.
Trán kề trán, anh ôm cô ngồi sát cửa kính, hỏi nhỏ: “Thích không?”
Cô gật đầu, cảm giác mặt dần nóng lên.
Thế là cô lại xác định lần nữa: không biết cô thích hôn Tạ Trạch Ích đến đâu.
Không chừng thứ cô ham muốn chính là thể xác của anh – người đàn ông thuộc chi báo họ mèo nhưng thực chất là thú ăn thịt.
Ở bên ngoài phòng, Mật Thu thấp giọng hỏi: “Cô ba, mèo đã đi chưa vậy? Hình như cửa bị khóa trái rồi, bà Cát bảo tôi lấy chìa khóa mở cửa ——”
Cửa phòng đã đóng lại thì chỉ có thể mở từ bên trong. Có lẽ Mật Thu cũng đoán được ‘thứ’ ở ngoài ban công không phải là mèo. Gọi mãi mà không thấy cô đi ra, chỉ e cô và Tạ Trạch Ích đang đóng cửa ở trong đó làm chuyện gì bậy bạ, thế là vội vã đi báo lại với bà Cát.
Có trời mới biết là cô tự khóa trái nhốt mình ở ngoài phòng.
Hai người nhìn nhau bật cười.
Sở Vọng: “Bao giờ thì anh về Hương Cảng?”
“Chậm hơn em, hai ba tuần sau.”
Cô gật đầu.
Tạ Trạch Ích lại trèo xuống thang sắt rời đi.
Hẹn hò trong chốc lát như thế này giống hệt yêu đương vụng trộm tuổi mới lớn. Cô nằm nhoài trên ban công nhìn xuống, trong lòng vui vẻ không thôi.
Ngọn đèn dầu hỏa trong vườn vẫn thắp sáng, người đàn ông trẻ tuổi kia ân cần hỏi: “Vẫn ổn chứ?”
Lúc này Sở Vọng mới nhìn rõ anh ta: tươm tất sạch sẽ, tóc chải ngược ra sau, mặc âu phục đeo kính, đi lên lầu nhìn xung quanh.
Giọng của Tạ Trạch Ích vang lên: “Tôi nghĩ cô rất rất ổn, anh cứ yên tâm.”
Có lẽ thị lực của người ấy không được tốt. Thấy anh mặc quân trang thì tưởng là tuần quan tô giới được mời tới, bèn hỏi: “Đã bắt được mèo cho cô ba rồi à?”
“Chuyện đó thì không ——”
“Không được!” Người đàn ông kích động nói, “Để tôi đi bắt giúp cô ấy.”
Tạ Trạch Ích thân thiện trả lời, “Động vật bốn chân, muốn bắt cũng không dễ đâu.”
Người đàn ông lại đáp: “Cô ấy đang ngủ mà lẻn vào phòng như thế, lỡ dọa cô ấy thì sao?”
Tạ Trạch Ích cười: “Tôi nghĩ sẽ không có chuyện đó đâu.”
“Vì sao anh biết?”
“Hình như tôi vẫn chưa biết quý danh của anh?”
“Cứ gọi tôi là anh Mạch là được rồi.” Người đàn ông nọ sửa lại quần áo.
“Ồ. Có phải cha anh bán kẹo không?”
Có lẽ con trai của nhà tài phiệt kinh doanh kẹo chưa từng nghe ai gọi sản nghiệp kếch xù của cha là “bán kẹo” cả, anh cảm thấy bị mạo phạm, thế là nhìn lướt anh, hỏi ngược lại: “Quý danh của anh đây là?”
“Tạ Trạch Ích.” Anh giới thiệu tên họ xong, lại bổ sung, “Chồng của cô ba Lâm.”
Bàn tay giơ ra của Mạch thiếu gia đông cứng tại chỗ.
Tạ Trạch Ích rảo bước rời đi.
Lúc này Mật Thu đã đẩy cửa đi vào, thấy trong phòng không một bóng người bèn đẩy cửa kính đi ra ban công, thấy cô đứng bên ngoài thì mới thở phào một hơi.
Sở Vọng vui vẻ nằm nhoài lên lan can, gần như có thể mường tượng được vẻ mặt hời hợt điềm nhiên của Tạ Trạch Ích lúc nãy.