Tạ Trạch Ích ngoái đầu nhìn lại theo ánh mắt của cô, “Ban ngày tôi sẽ ở đây.” Nghĩ ngợi một lúc, anh lại nói tiếp, “Chưa dùng bồn tắm.” Trước khi đi lại bổ sung thêm một câu nữa: “Cũng không có phái nữ ghé đến.”
Bữa tối cô ăn rất ngon, đang định khen anh ta mấy lời thì đột nhiên lại nghe thấy ba câu này, cứ như thể cô là bạn gái mới quen chuyên môn ghen tuông vậy. Cô múc một thìa cháo đút vào miệng, quả thực bị nghẹn nuốt không trôi. Nhưng thực sự đồ ăn trên bàn rất ngon khiến cô ăn không dứt miệng, thế là cứ trơ mắt nhìn Tạ Trạch Ích rời đi mà chẳng nói được gì.
Tắm nước nóng gột rửa khó chịu quanh thân, ngủ một giấc đến tận lúc trời hửng sáng.
Bỗng dưng không còn ai phục vụ ăn mặc, cô vẫn chưa quen lắm. Mơ màng đi vào phòng ăn, trên bàn có một đĩa lạp xưởng gan ngỗng và một ly trà. Lại gần mới ngửi thấy, thì ra là trà hoa lài ngọt ngào, vẫn còn vương hơi ấm. Còn đang thắc mắc thì bất chợt nghe thấy trong phòng bếp có tiếng nước nhỏ tí tách. Ngoái đầu nhìn lại, không có bóng dáng một ai, chỉ có một chiếc máy pha cà phê tự động đang pha cà phê.
Bên ngoài có giọng nữ đang nói chuyện:
“… Chắc chắn là cha ổng muốn ổng sống đàn ông hơn. Tôi mà nổi giận với ổng ấy hả, là ổng lại khuyên tôi đừng nổi giận, còn đưa trà tới nữa, kiểu này thì giận gì được…”
Tiếp theo sau là giọng nam trung nói tiếng Quảng quen thuộc: “Cô Trịnh tốt tính quá.”
Cô cầm ly trà hoa lài, kéo lê đôi dép đi ra cửa, đập vào mắt đầu tiên là Tạ Trạch Ích toàn thân màu đen. Anh đang đứng trên một chiếc ghế nhỏ cẩn thận thay bóng đèn, thấy cô đi ra thì cũng chẳng ngạc nhiên, chỉ hỏi: “Ngủ ngon không?”
“Cũng không tệ.”
Đứng dưới cầu thang là một quý cô trông khá trẻ tuổi, mặc áo ngủ tơ lụa hoa hồng, tuy có thắt đai lưng nhưng trông khá lỏng lẻo. Mái tóc uốn xoăn xõa tung, vừa cầm lược chải đầu vừa trò chuyện câu được câu với Tạ Trạch Ích, không có chút nào gọi là giữ ý. Đúng là một người phụ nữ xinh đẹp.
Sở Vọng mỉm cười thân thiện với người ta, cô gái kia lập tức đổi sang gương mặt tươi cười xán lạn: “Ái chà, tôi còn thắc mắc sao cậu Tạ lại dậy sớm thế. Thì ra là bạn gái đến Thượng Hải, đàn ông con trai cứ đi chơi với bạn gái đi, đèn không sáng thì cứ bảo anh Trịnh sửa là được.”
Sở Vọng cười nói: “Không phải…”
Tạ Trạch Ích cười đáp: “Cám ơn cô Trịnh quan tâm. Đợi lát nữa sửa xong, tôi sẽ dẫn cô ấy đi chơi.”
Cô Trịnh thân thiết hỏi: “Em đến Thượng Hải bao lâu rồi?”
“Mới tối hôm qua.”
Cô Trịnh thấy cô mặc áo lông màu tím với quần lụa màu xám nhạt thì nói: “Em phối đồ hợp lắm, vừa trang nhã lại vừa đẹp. Trai tài gái sắc, trước đây tôi còn muốn giới thiệu bạn gái giúp cậu ấy nữa chứ. Ái chà, nguy hiểm quá nguy hiểm quá.”
Sở Vọng sờ trán, cười khổ gật đầu phụ họa: “Là anh Tạ mới đúng chứ, vừa trang nhã lại vừa đẹp.”
Thường thì khi người ngoài khen các cặp tình lữ, người trong cuộc sẽ tỏ vẻ rất khiêm tốn. Nhưng nghe cô trả lời như vậy thì cô Trịnh thoáng sửng sốt, tưởng cô khác người. Nhưng cẩn thận ngẫm lại thì mới nhận ra có lẽ mình đã hiểu nhầm quan hệ của hai người, vậy là tự an ủi: chắc là là nam nữ đang trong giai đoạn mập mờ, nên mới xấu hổ khi người ngoài nói mình đây mà.
Lúc này Tạ Trạch Ích lại mở miệng phá đám: “Có tài năng có dung mạo là cô Lâm mới đúng. Tôi không đáng một đồng, còn kém xa lắm.”
Câu kia của cô là phủi sạch quan hệ, nhưng câu này của anh lại biến hai người trở thành cặp đôi sáng sớm trêu nhau. Sở Vọng quay sang trợn mắt nhìn anh, nghiến răng nói: “Anh Tạ khách khí quá rồi.”
Tóc cô Trịnh rất rối, chải một lúc mà rụng một đống. Lúc này ở dưới cầu thang toàn là tóc xoăn, trông y hệt lông dê mới cạo.
Cô ấy cau mày gọi: “Trịnh Tông Di, mẹ đâu rồi?”
Bên trong có giọng nam trầm vọng ra: “Ở quê có người đến, mời đi ăn rồi.”
“Người Quảng Đông có nhiều họ hàng thật đấy.” Cô ấy bĩu môi, “Trịnh Tông Di, ra hốt rác đi.”
Một người đàn ông vóc dáng vạm vỡ cầm chổi và hốt rác đi ra, thành thạo quét sạch tóc rụng, suốt cả quá trình cứ cúi gằm đầu mà không hề ngẩng mặt nhìn lên.
Sở Vọng bất đắc dĩ cười, nghĩ bụng: là căn hộ phát bài “Vô Tích cảnh” ở tầng dưới đây mà, tuy người đàn ông này không phải là người Thượng Hải, nhưng trình độ ngoan ngoãn thật sự rất đạt tiêu chuẩn của quý cô Thượng Hải, đúng là thú vị.
Đợi cô Trịnh và anh Trịnh vào nhà, người đằng sau mới nói nhỏ một câu, nghe có vẻ như đã chịu tổn thương: “Quê tôi cũng là Quảng Đông.”
Lúc này Sở Vọng mới sực nhớ ra, một câu vô tình của cô Trịnh đã mắng luôn cả anh. Cô thuận miệng hỏi: “Vậy rốt cuộc nhà anh Tạ có bao nhiêu họ hàng?”
Tạ Trạch Ích nghĩ ngợi, sau đó trả lời đầy chắc nịch: “Nhiều cực kỳ.”
Chợt nhớ tới đám vợ bé trang điểm lộng lẫy của cha anh, không biết vì sao lại khiến cô cảm thấy buồn cười. Sở Vọng không nén cười nổi, suýt nữa đã làm rơi luôn cả ly trà.
“Có lẽ cà phê đã pha xong rồi đấy. Trong tủ có hộp bơ Devonshire, muốn thử không?” Tạ Trạch Ích bật thử công tắc, đèn đã sáng, cuối cùng cũng soi rõ gương mặt tuấn tú trong hành lang tối đen.
Vụng về làm đổ hai ly cà phê, khiến cà phê rơi vãi khắp bệ bếp. Do kệ làm từ gỗ nên khi bị dính nước thì có lau mãi cũng chẳng sạch. Tạ Trạch Ích đứng ngoài nhìn, chỉ cười chứ không có ý định giúp.
“Lau không được đâu.” Đợi cô nhọc công cả buổi, lúc này anh mới nói ra kinh nghiệm nhiều năm của mình.
“Sao không nói sớm?”
“‘Đi một ngày đàng học một sàng khôn’?”
“Ồ… Mấy năm qua tiếng Trung của anh tiến bộ nhiều đấy.”
“Vì để cống hiến hết mình cho các quý cô Trung Quốc, sao có thể không học tiếng Trung được?” Tạ Trạch Ích vô cùng khiêm tốn.
Cô cười nói: “Hèn gì anh Tạ lại thành thạo nhiều ngôn ngữ đến vậy.”
“Những thứ tiếng khác là vì kế mưu sinh, chỉ riêng tiếng Trung là nguyện vọng của cá nhân tôi.” Anh nghiêm túc suy nghĩ, sau đó nói, “Tôi thường nghe nói con gái phương Đông hấp dẫn nhất là khi ở phòng chính và phòng bếp. Phòng chính thì chứng kiến rồi, còn phòng bếp thì… Hôm nay mới là lần đầu đấy, cũng muốn được thấy nhiều hơn hơn.”
Cô lại không thể tiếp lời nổi, hơn nữa còn suýt ném chiếc khăn dính đầy cà phê vào bản mặt tươi cười của anh. Nhưng tới khi cẩn thận nghĩ lại, nếu đổi thành một tay gà con mới bước vào tình trường, thì nhất định ngay từ đâu sẽ đi tới giành lấy chiếc khăn trong tay đối phương, thể hiện phong độ lịch lãm “cống hiến hết mình vì các quý cô”, nhưng nếu làm như vậy thì sẽ không có chủ đề để nói chuyện tiếp.
Hai người đứng dưới bếp uống hết cà phê, lần này Tạ Trạch Ích lại ra tay rửa sạch bát đĩa, dùng vải bông trắng tinh lau nước đọng rồi xếp vào trong ngăn tủ.
Làm xong xuôi mọi chuyện, anh ngoái đầu hỏi cô, “Lát nữa có muốn đi đâu không?”
“Đến chỗ làm việc xem thế nào, tiện đường thì ghé vào cửa hàng, mua vài thứ đồ dùng hằng ngày.”
“Ừ. Địa chỉ ở đâu? Tôi đưa em đi, vừa hay dẫn em đi làm quen với bên này.”
“Vậy thì phiền lắm. Thứ Bảy ở cục cũng được nghỉ à?”
“Không.”
“…”
Sở Vọng không hề biết rằng: khi bà Cát vừa gửi điện báo đến cục cảnh sát, anh còn chưa mở miệng thì cấp trên đã ra tay trước, rất chu đáo phê duyệt cho anh được phép nghỉ hai ngày.
Anh không nói nên Sở Vọng tưởng anh cố ý xin nghỉ, thế là lại áy náy.
Tạ Trạch Ích vẫn bình tĩnh bảo: “Nếu cô ba chê tôi chướng mắt thì cứ xem tôi như vật trang trí là được, coi tôi như tài xế khi em đến Thượng Hải. Đọc địa chỉ, xuống xe rời đi là xong.”
Hai người đi xuống thang máy, đêm trước không thấy gì, nay trời sáng thì mới thấy rõ: thì ra dưới lầu có một chiếc bàn liền ghế, có một người đàn ông trung niên ngồi canh cửa. Người nọ chỉ thấy Tạ Trạch Ích, vui vẻ gọi: “Cậu Tạ đấy à ——” Rồi chợt nhìn sang bên cạnh anh, miệng há to nhưng không biết xưng hô thế nào.
“Đây là cô Lâm, chủ nhà cho thuê.” Tạ Trạch Ích nói.
“Ồ —— Chào cô Lâm buổi sáng!” Người nọ chào rõ to.
Chỉ một buổi sáng đã bị hai người liên tiếp hiểu lầm là cặp đôi, cô cũng chẳng biết giải thích thế nào, chỉ có thể cùng Tạ Trạch Ích lên xe.
Tạ Trạch Ích lại rất có kiên nhẫn giải thích với cô: “Ở con hẻm này buổi tối chỉ có hai ngọn đèn, có điều vẫn thường xuyên có cảnh sát hai nước tuần tra, cho nên em không cần lo lắng.”
Bây giờ đang là ban ngày, hai tòa nhà này rất cao, khiến cho con hẻm nằm giữa hai tòa kiến trúc trở nên âm u. Quanh năm không thấy ánh sáng nên rất dễ ẩm thấp, trên vách tường cả hai tòa nhà mọc đầy địa y màu xanh. Nếu chỉ có hai ngọn đèn thì không biết buổi tối còn âm u thế nào nữa đây.
Cảnh sát hai nước? Cô cười thầm. Cảnh sát nước ngoài coi mạng người như cỏ rác, ai chẳng biết có “Quy định phạt binh lính ở Trung Quốc”? Lính Anh hay lính Mỹ phạm tội tại Trung Quốc thì do tòa án nước mình xử. Còn nếu cô xảy ra chuyện, chỉ sợ chính phủ sẽ bán quách cô đi, giúp chính phủ Anh Mỹ kiếm tiền.
Thế là Tạ Trạch Ích nói tiếp: “Nếu như về trễ thì gọi điện cho tôi, tôi đưa em về.”
Sở Vọng nhìn thẳng vào anh: “Cô út thật sự bảo anh phải chăm sóc tôi à?”
“Yểu điệu thục nữ quân tử hảo cầu.” Tạ Trạch Ích nói dối đến mức mặt không đổi sắc. Như thể biết cô không tiếp lời được, anh nghiêm túc nói: “Thứ Bảy chắc không có chuyện gì làm, làm quen đường đi chỗ ở rồi thì giữa trưa có muốn ăn gì không?”
Sở Vọng cảm thấy buồn cười: “… Mới ăn sáng xong mà.”
“Ở tuyến đường vượt giới* có một quán ăn Thiên Tân mới mở, đồ cũng được. Canh củ cải lưỡi vịt, có muốn ăn không?”
(*Đây là những tuyến đường xây dựng thêm bên ngoài khu tô giới công cộng Thượng Hải, chính phủ thực dân có quyền lực cảnh sát và quyền đánh thuế các dịch vụ trên các con đường này, nhưng quyền hành chính vẫn thuộc về chính phủ Trung Quốc.)
Quả thực cô không muốn ra vào nơi công cộng với anh cho lắm, thế là bảo: “Về nhà ăn đi.”
“Có hài lòng với tay nghề của đầu bếp tối qua không?”
“Lạp xưởng gan ngỗng sáng nay cũng do anh ta làm hả?”
“Ừ.”
Sở Vọng lấy làm ngạc nhiên, “Tôi cứ tưởng anh Tạ sống ở Thượng Hải phải vất vả lắm chứ.”
Tạ Trạch Ích cười bảo, “Có phải em rất ngạc nhiên không, vì hiện tại tôi nghèo rớt mồng tơi mà vẫn sống xa hoa lãng phí?”
Cô im lặng một lúc, “Anh Tạ à, tôi không…”
“Không muốn thuê đầu bếp phải không.”
“Có lẽ cô tôi đã dặn dò anh rồi, nhưng tôi thực sự không yếu đuối đến thế. Đầu bếp, giúp việc, quản gia, không cần phải thuê ai cả. Chỗ này cũng không lớn, ăn uống sinh hoạt đều do mình thì vẫn thoải mái hơn.”
“Được rồi.” Tạ Trạch Ích đáp đầy sảng khoái, nhưng trong nụ cười đó lại che giấu sự không tin tưởng.
Xe bất tri bất giác từ đường Ferguson đi đến đường vượt giới. Từ số 63 đến số 67 là tòa kiến trúc sáu tầng không quá khí thế, nhưng bên ngoài lại có cảnh sát canh giữ nghiêm ngặt, Tạ Trạch Ích đành phải đậu xe cách đó một trăm mét.
Vì là thứ Bảy nên tòa nhà làm việc không mở cửa, tầng nào cũng khóa cửa sắt, canh phòng nghiêm ngặt. Ở bên ngoài đặt mấy chiếc bàn, có hai người lớn tuổi ngoại quốc ngồi ở đó chờ các nhân viên nghiên cứu từ khắp nơi trên thế giới đến báo cáo.
Thư mời của cô bị cảnh sát kiểm tra nhiều lần, cuối cùng mới đưa cô vào bên trong cửa sắt, đứng trước mặt hai người lớn tuổi kia.
Một người già trong đó có cặp mắt xếch, con ngươi màu xanh nhạt, trong suốt tới mức tưởng chừng ông ta bị đục thủy tinh thể, chóp mũi lại cao đến tận trời xanh, có dáng dấp giống người Do Thái; nếu Pinocchio mà già đi thì có lẽ sẽ trông giống ông ta.
Cách cặp kính nhỏ, ông ta nghiêm túc xem thư mời của cô, sau đó nói: “Cô ở tổ I. Chín giờ rưỡi sáng thứ Hai tuần sau, đừng đến trễ.”
Cô nghe vậy thì thầm nhủ: Xem ra phân công cũng rất rõ ràng. Nhưng rốt cuộc tổ I là làm gì?
Muốn để cô tự suy đoán ý nghĩa à?
Cô cúi đầu thấp giọng hỏi: “I… Ignite… đúng không?”
“Vẫn chưa quen với chương trình bảo mật hả?” Ông ta liếc nhìn cô, đóng dấu lên thư mời rồi xé làm đôi, vứt xuống lò lửa dưới chân tiêu hủy.
Cô thật sự vô cùng tò mò.
Sở Vọng nhìn chiếc lò kia, chậc lưỡi nghĩ: cứ tưởng người nước ngoài không thích mấy thứ cũ kĩ như lò sưởi của phương Nam Trung Quốc; nào ngờ cùng một thứ hai công hiệu, còn có thể dùng để tiêu hủy tài liệu.
Báo cáo xong, đến khi quay ra thì cô thấy Tạ Trạch Ích đã xuống xe, đang đứng trò chuyện với mấy người cảnh sát. Trong khoảnh khắc ấy, bầu không khí như thoát khỏi lớp vỏ khách khí lạnh lùng, sĩ quan người Anh tháo vũ trang xuống, đang trò chuyện về người nhà và bạn gái với anh.
Sở Vọng thấy thế thì lắc đầu nguầy nguậy. Tạ Trạch Ích không chỉ là cao thủ tình trường trời sinh, mà còn là cao thủ giao tiếp bẩm sinh nữa. Nếu còn nói tiếp, e là ngay đến chương trình bảo mật mà mấy người lính Anh này đang canh giữ sẽ phải bỏ đi toàn bộ.
Thấy cô đi ra, Tạ Trạch Ích sải bước tới gần. Mấy người lính Anh ở phía sau thực sự hiểu lầm, đứng đằng xa huýt sáo.
Không biết đây đã là lần thứ bao nhiêu trong ngày rồi.
Bên cạnh có cửa hàng bách hóa. Ngoài bàn chải xà bông khăn lau ra, còn có mấy thứ vật dụng của con gái mà chỉ cửa hàng nhập khẩu mới bán. Lúc này anh cũng không sốt sắng tỏ vẻ nhiệt tình lịch thiệp, chỉ kiên nhẫn đứng ngoài cửa chờ cô thong thả mua đồ. Vừa thấy cô đi ra, Tạ Trạch Ích lập tức nhận lấy túi đồ trong tay xách lên xe.
Lần nữa khởi động xe, Tạ Trạch Ích nói: nếu không muốn anh đưa đón thì từ nơi này có thể ngồi xe điện đến đường Lemaire, tầm 15 phút, rồi đi bộ khoảng 10 phút là về đường Ferguson. Hoặc là xuống xe ở đường Winling, đúng đoạn cuối đường Ferguson.
Xe dừng lại ở dưới lầu, Tạ Trạch Ích dẫn cô từ cổng nhà xuyên hẻm cũ, rẽ trái rẽ phải đến trạm xe điện rồi vòng về, rồi anh hỏi: “Đã nhớ chưa?”
Ở Hương Cảng đi đâu cũng có xe điện xe buýt đi thẳng tới nơi. Còn thành phố cổ thế này lại quy hoạch rất bất hợp lý, Lâm Trí quen với việc dựa vào Google Maps tìm đường bèn lắc đầu: “…”
Tạ Trạch Ích tốt bụng trả lời: “Không sao, đi lại lần nữa là được.”
Đi lần hai xong thì đã quá trưa.
“Đã nhớ chưa?”
“Cũng tàm tạm.”
“Tạm là bao nhiêu?”
“Ba mươi phần trăm.”
“Không sao, đi nhiều lần tự khắc nhớ. Đã đói bụng chưa?”
Cả một buổi sáng bị ép phải hoạt động gân cốt – đi đi lại lại trong tô giới cũ, lúc này cô sờ bụng, thừa nhận, “Đói rồi.”
“Ăn đồ Thiên Tân không?”
“…”
Nước canh màu trắng thơm lừng, lưỡi vịt béo béo mềm mềm, ngậm vào trong miệng rồi rút xương đi, phần thịt lập tức tan ra. Phải thừa nhận một điều là canh củ cải lưỡi vịt quá ngon. Không thừa nhận cũng không được, nhìn bề ngoài Tạ Trạch Ích có vẻ “bạn thế nào cũng được, tôi không thành vấn đề”, nhưng thực chất trong đầu đã sắp đặt vô số phương án từ lâu, phương án nào cũng khiến bạn phải tâm phục khẩu phục. Mà một khi đã trúng bẫy của anh rồi, bạn không thể không khen anh một câu: Anh Tạ đúng là cân nhắc chu đáo.
Ở bên cạnh tiệm thức ăn Thiên Tân là một quán cà phê Kiessling do người Thiên Tân mở, lúc đi ngang qua cửa kính, Sở Vọng ngạc nhiên phát hiện: không ngờ ở đây còn có bán loại bánh tam giác hay ăn ở Hương Cảng.
Hai người cùng bước vào tiệm, Tạ Trạch Ích cũng khá kinh ngạc, “Bánh Scone?”
Chủ tiệm cũng lấy làm kinh ngạc: “Đây là lần đầu hai người tới tiệm tôi đúng không, thì ra ở chỗ khác Thượng Hải cũng có bán Scone sao?”
Tạ Trạch Ích cười nói, “Không có, chỉ là hồi trước từng ăn ở bến tàu Thiên Tinh Hương Cảng.”
“Tiệm cà phê Chim Xanh à?” Sở Vọng hỏi.
Tiệm cà phê Chim Xanh tại bến tàu Thiên Tinh là hồi ức của những người trẻ tuổi về Hương Cảng.
Anh nheo mắt: “Đã lâu lắm rồi chưa đến đó.”
Trong khoảnh khắc ấy, cô cũng không biết Tạ Trạch Ích nhớ lại hồi ức gì ở Hương Cảng. Nhưng với cô, trong thời gian năm năm ngắn ngủi, năm chữ cái “scone” đủ gợi lên rất nhiều hứng thú.
Không rõ tình cảm này là gì.
Hương Cảng chưa bao giờ là cố hương của cô, cả nơi này cũng thế. Tuy là lãnh thổ Trung Quốc, song lại như một thế giới xa lạ mọc trên mảnh đất. Năm 1929 đối với cô quá đỗi lạ lẫm. Cô có cảm tình với nơi này, nhưng nhiều hơn thế là sợ hãi.
Đây có phải quê hương của mình không? Có rất nhiều lúc, sự xa lạ mịt mù này đã đẩy cô vào sợ hãi, làm cô có cảm giác mình như kẻ tha hương. Tại đất khách quê người, cô không có tri kỷ, cũng không có người hiểu cô.
Bên ngoài đường Ferguson có một khu chợ bán đồ ăn. Tạ Trạch Ích đậu xe dưới lầu để cô đi về nghỉ ngơi, còn mình thì đi bộ đến chợ.
Cô hỏi bảo vệ thì mới biết dưới lầu còn có hòm thư. Lúc Sở Vọng kiểm tra hòm thư, Tạ Trạch Ích đã xách đồ đạc lên lầu cho cô.
Bên ngoài mỗi hòm thư đều được đánh dấu bằng họ người ở.
Cô lại mượn bảo vệ giấy bút, viết một chữ “Lâm” bên cạnh chữ “Tạ”.
Cầm chìa khóa mở hòm thư, một đống thư từ xổ ra rơi xuống. Đưa mắt nhìn qua, tất cả đều là thiệp mời: tiệc cốc-tai, tiệc ăn mừng, hôn lễ Trung Tây, chiếu phim dạ vũ… Cần gì cũng có, từ năm ngoái cho tới tận năm nay, bức thư nào vẫn còn nguyên xi.
Xem ra, tuy anh ta ở đây đã lâu nhưng không biết ở dưới lầu còn có hòm thư —— cũng không biết đã khiến bao nhiêu người mong chờ rồi thất vọng đây.
Có lẽ chức vụ của anh cũng không quá quan trọng, cô thấy anh ta đi xã giao còn nhiều hơn bất cứ ai. Cũng không biết có phải là do thân với bà Cát từ sớm không, hay là do bản tính khéo léo mẫn tiệp bẩm sinh của anh. Người Anh không quen đưa đẩy như thế, nhưng đây là địa phận Trung Quốc, điều người nước ngoài nói không được, đến lượt anh chắc chắn sẽ thành: Trình độ tiếng Trung đột nhiên tăng vọt, nói đủ ngôn ngữ ngưu xà quỷ thần nhưng lại chẳng nhận biết được bao nhiêu chữ Trung, nay xem ra cũng không cần thiết.
Còn một lý do khác nữa đó là: anh có một gương mặt không cách gì khiến người khác ghét bỏ được. Có rất nhiều cô gái trẻ dễ dàng si mê một người đàn ông anh tuấn, thêm việc người này cũng khéo léo đưa đẩy, không hề khiến người ta nói ra nói vào. Nhìn như thế, có ai mà không thích?
Đúng là là tấm vé thông hành tự do hành tẩu ở tình trường và tình người.
Ngay đến đám trẻ Xô Viết dưới lầu cũng không thoát khỏi bàn tay ma quỷ của anh.
Vừa cầm thư đi vào tháng máy, còn chưa kịp mở cửa thì cô đã thấy một cậu bé tóc đã đứng trước cửa nhìn quanh. Thấy gương mặt xa lạ là cô, cậu bé lẩm bẩm gì đó bằng tiếng Nga, cô chỉ nghe hiểu được một câu là “chị Tạ”; dùng tiếng Anh giải thích thì lại sợ con nít nghe không hiểu, đúng là nhức đầu.
Lời đùa dùng với bạn gái người Mỹ của anh trên đảo xa hai năm trước giờ như báo ứng rơi xuống người cô. Cô thở dài, đột nhiên nhớ ra mấy miếng bánh Scone ở trong túi giấy, thế là lấy ra cho cậu bé đó, lúc này cậu mới chịu đi.
Mỗi một tầng lại có máy giặt công cộng, sáng sớm trước khi ra ngoài cô đã cầm khăn trải giường và vỏ gối đi giặt, lúc này đi lấy đem về nhà phơi nắng, trong chớp mắt đẩy cửa ban công ngoài phòng tắm ra, một mùi thơm ngát bay vào mũi.
Bên ngoài có mấy ly sứ xương* màu xám nhạt, dùng để trồng mấy đóa hoa lan trắng đang được nước nhỏ tí tách tưới ướt, mỗi ly chừng năm sáu bông, cả thảy có sáu ly, vị chi tổng cộng có hơn ba mươi đóa hoa.
(*Sứ xươnglà một loại đồ sứ được chế tác chủ yếu từ tro xương động vật trộn với một loại khoáng chất tên là fensfat (hay còn gọi là tràng thạch) và đất sét trắng.)
Cô thực sự bị chấn động ngạc nhiên, không ngờ người có được sự hứng thú nhàn nhã này lại chính là Tạ Trạch Ích.
Phơi chăn xong, có người đẩy cửa đi vào. Từ phòng tắm đi ra, cô thấy Tạ Trạch Ích đang xách một con cừu nhỏ đã được làm thịt đi vào cửa.
Bộ quần áo được là thẳng trông đầy khí chất phóng khoáng, nhưng lại trái ngược hẳn một trời một vực với thứ anh đang cầm trong tay.
Cô đi ra ngoài hành lang, “Không phải đã nói là không mời đầu bếp sao?”
“Nghe theo lời dặn của cô ba, dĩ nhiên không mời.”
“Tức là anh Tạ sẽ xuống bếp?”
Tạ Trạch Ích cười nói, “Cô ba đã nếm thử tay nghề của tôi rồi còn gì.”
Cô ngạc nhiên: “Đầu bếp có thể làm được món Bắc Kinh Quảng Đông Thượng Hải chưa từng xuất hiện chính là anh ư?”
“Có hợp khẩu vị không?”
“Rất… ngon.” Đột nhiên nhớ ra, cô được hưởng lòng tốt của người ta, không những không đội ơn mà còn chỉ trích anh “xa hoa lãng phí vô độ”. Giờ bị mất mặt, thực sự không dám đối diện. Cô xấu hổ hỏi, “Do ăn ngon quá… nên thật sự không nghĩ tới.”
“Cầu kỳ về thức ăn quen rồi, thì dù là ai cũng sẽ dần trở thành nửa đầu bếp thôi.”
Cô nhìn con cừu trong tay anh, không hiểu sao lại nhớ đến một món ăn nổi tiếng đầy buồn cười của Scotland: “Haggis?”*
(*Haggis là món ăn làm từ nội tạng loài cừu, băm nhỏ với hành tây, bột yến mạch, mỡ ở thận cừu, gia vị, muối, trộn với nhau và theo truyền thống, nhồi trong dạ dày của cừu và luộc trong khoảng ba tiếng đồng hồ.Ảnh.)
Người châu Âu rất có thành kiến về nội tạng. Các cơ quan nội tạng động vật, bất kể là gà vịt, ngỗng, cừu hay bò thì đều moi sạch nội tạng, phần xương làm thành đồ đựng, hoặc hầm hoặc nướng cùng với bột yến mạch trái cây. Vào những dịp ăn tiệc hay năm mới, chủ khách quây quần bên bàn cùng luyện dao nĩa với thịt cừu, vô cùng náo nhiệt vui vẻ.
Tạ Trạch Ích cười nói, “Hình như em có thành kiến gì về quốc tịch của tôi à?”
Rồi anh giơ túi lòng cừu trong tay phải lên: “Trong này là thứ người Trung Quốc tham ăn thích.”
Sở Vọng cười thầm. Người tham ăn chưa chắc là người Trung Quốc, nhưng nấu đồ ngon thì chắc chắn không phải là người Anh.
Súp lòng được hầm lên, thì là hẹ xanh hấp chung với thịt dê, hương thơm ngất ngây bay đầy nhà, dù cho không đói thì thực sự vẫn có thể “thơm chết người”.
Ăn uống xong xuôi, Tạ Trạch Ích dựa vào cửa nhìn cô đem mấy tấm thiệp mời cũ kỹ ra, không chút do dự ném vào giỏ tre.
Cô tựa vào vách tường ngoài hành lang, gọi hỏi: “Anh Tạ?”
“Ừ?”
“Tìm được nhà trọ mới chưa?”
Tạ Trạch Ích vờ như chán nản, “Tôi khiến cô ba ghét đến thế sao?”
“Anh biết tôi không có ý này mà.”
Tạ Trạch Ích mỉm cười, “Dì Cát cố ý gán ghép tôi với em.”
“Tôi biết.”
Hai người rơi vào một khoảng im lặng. Một lúc sau, Sở Vọng lên tiếng, “Cô út thì tôi biết rồi. Nhưng còn ngài Tưởng, vì lý do gì?”
“Tôi nghĩ chắc là em gái tôi nhờ ông ấy làm phiền dì Cát.”
Cô thực sự không hiểu.
Tạ Trạch Ích nghĩ ngợi rồi nói, “Tôi và cha bất hòa đã lâu. Ông ấy muốn tôi về Anh sống yên ổn qua ngày, còn tôi không thích làm theo ý ông ấy, nên ông ấy cũng không muốn tôi được như ý. Tôi là con trai duy nhất của ông, người trong nhà còn sốt ruột hơn cả tôi với cha. Nếu như dì Cát có thể khuyên bảo tôi thành công chuyện đó, thì chắc đấy sẽ là cách duy nhất trên đời này có thể khiến quan hệ cha con dịu lại.” Anh quay đầu nhìn vào mắt cô, “Cô ba không biết ư, em chính là quân át của dì Cát.”
Nghe anh nói xong, cô lập tức hiểu rõ ý đồ của ngài Tưởng. Có điều về phần Tạ Trạch Ích, cô vẫn khó hiểu như cũ, vì theo như quốc tịch và lịch sử… Cô cẩn thận hỏi: “Nếu tôi nhớ không nhầm, nếu sinh ra trong bệnh viện công ở Anh thì nhất định sẽ có thân phận công dân Anh, đúng không?”
Tạ Trạch Ích biết cô muốn hỏi gì, cười nói: “Vì sao lại muốn đến Thượng Hải, đúng không?”
Không đợi cô trả lời, anh đã nói tiếp: “Chỉ đôi ba câu thì khó mà khiến người ta tin được, thậm chí đến bản thân tôi còn không tin mà. Nếu có cơ hội, tôi sẽ từ từ kể cho em biết vì sao.”
Cô gật đầu.
Anh không nói chuyện, cô lại chìm vào im lặng, sự im lặng tới từ lịch sử mà cô biết.
Nếu anh về Hương Cảng thì hơn 10 năm sau, chắc chắn sẽ bị quân Nhật bắt làm tù binh cùng với một trăm ngàn lính Anh khác; Nếu ở lại Thượng Hải, thế thì 8 năm sau sẽ bị quân Nhật đưa vào trại tập trung; Còn nếu về Anh, thì thứ đợi anh chính là chiến trường Pháp hoặc Bắc Phi. Cơ hội sống tiếp của Tạ Trạch Ích chưa đến tuổi 30 là rất thấp. Dù có đứt tay cụt chân thì cũng đã là may mắn lắm rồi. Nghĩ đến đây, cô chợt nhớ tới quẻ quẻ bói nói anh cô độc suốt đời ở trấn Nguyên Lãng hôm đó, xem chừng cũng có vẻ đáng tin.
Cô biết bà Cát muốn kết hợp cô với Tạ Trạch Ích, cũng biết bà xuất quân cờ này thực sự lợi hại. Nếu người khác không biết, thì sẽ cho rằng trung tâm tài chính số một Viễn Đông sầm uất thái bình vô cùng. Nhưng không phải cô chưa từng xem vở kịch “Trà quán” hay đọc bộ truyện “Lạc đà Tường Tử”(1), cũng không phải chưa từng nghe về Thẩm Sùng Minh và sự kiện lầu Cảnh Minh(2). Giao toàn bộ tính mạng của mình cho cảnh sát tô giới luôn coi thường luật pháp Trung Hoa ư? Trừ khi cô là kẻ điên.
Nhưng bây giờ, cô lại là kẻ tứ cố vô thân không nơi nương tựa, mà Tạ Trạch Ích đây lại đáp ứng toàn bộ yêu cầu của cô: ăn uống sinh hoạt lẫn sự an toàn đều có anh chăm lo, vô cùng đáng tin.
Vì vậy, dù cô không muốn cũng không sao; Tạ Trạch Ích biết kết quả của việc một cô gái trẻ tuổi độc thân ra vào hẻm tối là như thế nào, nên anh sẽ không để mặc cô.
Cô phải thừa nhận một điều, vào lúc này, cô thực sự rất cần Tạ Trạch Ích.
Cô thích kiểu người như Tạ Trạch Ích, giống như cô thích bà Cát vậy, không hề liên quan tới tình yêu. Nghĩa là bỏ đi thân phận khác phái, tình cảm tán thưởng xuất phát từ nội tâm. Khi người khác phái nhìn khác phái thì thường dùng đôi mắt mang chữ “sắc” để nhìn.
Đúng như con người Tạ Trạch Ích. Anh có điểm ưu tú của mình, nên thái độ của cánh phụ nữ nhìn anh luôn là hai mặt mang chữ “sắc”: hoặc là mê như điếu đổ, hoặc là cực kỳ ghét anh miệng lưỡi trơn tru. Thế nhưng liệu có ai từng để tâm đến mặt tốt khác của anh không? Thực ra kiểu người như anh, cũng có lúc rảnh rỗi nuôi trồng hơn ba mươi đóa lan trắng ở ngoài ban công.
Anh đúng là thú vị, còn cô thật vô vị. Giống như rất nhiều người châu Âu khác, tiêu chuẩn chọn bạn đời không nằm ở chỗ xấu đẹp mà là người ấy có thú vị hay không.
Cô thích người này, mà hiện tại cũng cần anh. Danh tiếng ư? Có thì cũng bị người cha “hờ” kia hủy hoại cả rồi. Mà dù chưa bị hủy, thì hai ngày qua hàng xóm láng giềng cũng đã hiểu lầm hết rồi còn gì. Những việc khác, dù thành hay không thành thì chắc chắn bà Cát cũng sẽ xử lý cho cô.
Cô cần gì phải kiểu cách bắt người ta dọn đi, rồi sau đó một ngày ba chuyến đến hầu hạ cô?
“Vậy tức là tôi có khả năng làm lành với cha sao?” Tạ Trạch Ích vô tình trêu cô.
Tuy biết rõ anh đang nói chuyện cười, nhưng cô vẫn nghiêng đầu nhìn Tạ Trạch Ích, trầm ngâm một lúc rồi nói: “Tôi không hiểu gì về tình yêu, cũng không định tìm hiểu xem nam nữ yêu nhau nghĩ gì.”
“Ừ. Điều này thì tôi rất hiểu.”
“Nhưng anh Tạ, với sự hiểu biết của tôi về anh —— anh là một cao thủ tình trường bẩm sinh, có lẽ anh cần một người bạn gái xinh đẹp hiểu phong tình hơn, có thể không nhất định phải là phụ nữ người Anh làm huân tước Tạ hài lòng, đồng thời bằng lòng ở lại Thượng Hải, vậy thì khó tìm quá. Nhưng tôi nghĩ, như thế lại không phù hợp với anh.”
Tạ Trạch Ích cẩn thận lắng nghe, bất chợt hỏi: “Giả sử hai ta đính hôn thì sao?”
Cô lắc đầu, cười hỏi, “Thế thì anh được lợi gì?”
Tạ Trạch Ích vẫn nói, “Lợi ích mặt khác?”
“Anh cần tình yêu.” Cô quay đầu, nhìn anh nghiêm túc hỏi, “Mà anh cũng nghĩ như vậy, đúng không?”
Tạ Trạch Ích thấy cô nhìn mình như thế thì bật cười, “Chưa từng có ai nghiêm túc hỏi tôi câu như vậy cả. Sau hôm nay thì tôi mới biết, thì ra câu hỏi như thế còn có thể khiến người ta phải suy nghĩ kỹ càng.”
Sở Vọng nghiêm túc suy nghĩ, nghiêm túc trả lời: “Tôi nghĩ có lẽ chúng ta sẽ không yêu nhau đâu. Nên là, dù anh Tạ cảm thấy chúng ta có hợp hay không, tôi vẫn hoan nghênh anh tiếp tục ở lại nhà trọ đường Ferguson. Dù không biết cô tôi cân nhắc thế nào mà trói chân anh bằng sự an toàn của tôi, thì tôi nghĩ, có lẽ bà ấy cũng sẽ không làm hại tôi. Nhưng đó là tôi đề nghị thôi, còn việc rốt cuộc có muốn ở lại hay không thì vẫn theo ý của anh Tạ.”
Tạ Trạch Ích cười thầm: chơi lớn như thế, thì ra là do sau khi cân nhắc kỹ càng, cho rằng anh không chuyển nhà thì sẽ có lợi cho mình nên mới khuyên anh ở lại.
Nói là mời ở lại, thực ra giữa vài ba câu đã vạch rõ giới hạn rồi. Em quá lý trí, còn tôi cần tình yêu. Hai chúng ta vốn không chung đường, nên tốt nhất là tôi đừng có suy nghĩ không an phận gì với em —— hơn nữa em cũng cho rằng tôi sẽ không có suy nghĩ không an phận.
Sau khi nhận rõ điểm này, em thừa nhận em vẫn cần tôi.
Cái đầu lý trí đến đâu mới có thể đưa ra kết luận này?
Đột nhiên dưới lầu có người bấm chuông, bảo vệ đến nói là có người ở đường vượt giới mời cô Lâm.
Bảo vệ vừa dứt lời, cô lập tức cầm áo khoác đẩy cửa đi ra, vừa đi vừa mặc áo, cổ áo cao ráo che khuất cần cổ trắng nõn.
Hai nốt ruồi đỏ kia đã biến mất.
Anh còn định uyển chuyển từ chối ý tốt của cô như thường, nói mấy câu êm tai ví dụ như: “tôi ở tạm cục cũng được, tìm được nhà trọ mới rồi sẽ chuyển đi. Dù chuyện có bận tới mấy thì với tôi, chuyện của cô ba vẫn là chuyện quan trọng nhất.” Hoặc là, “Không vì lý do gì cả, chỉ vì giáo dục đàn ông từ nhỏ đã nói với tôi là phải luôn ân cần phái với nữ, thế đã được chưa?”
Nhưng đột nhiên anh đổi ý.
Trước kia không có cảm giác gì, nhưng sau khoảnh khắc trên, đột nhiên anh có một suy nghĩ mà trước đó không hề có —— anh muốn xem xem, nếu có một ngày cô thật sự biết yêu thì sẽ như thế nào.
___
Chú thích:
(1):Trà quánvàLạc đà Tường Tửlà tác phẩm của Lão Xá. Nội dung chính của kịch nói “Trà quán” là thông qua quán trà của nhân vật Dụ Thái, phô bày ra mặt u ám thối nát cùng xã hội rối ren của xã hội nửa thuộc địa, nửa phong kiến Trung Hoa trong giai đoạn cải cách năm Mậu Tuất, quân phiệt hỗn chiến.
Còn “Lạc đà Tường Tử” là truyện dài kể về một người nông dân tên Tường Tử mồ côi cha mẹ lên Bắc Kinh kiếm sống. Y chỉ ấp ủ độc một mơ ước “lớn lao” là chắt chiu đủ tiền để mua một cái xe kéo, trở thành một phu kéo xe “cao cấp”. Nhưng mua xe lần đầu thì bị lính cướp, mua xe lần hai thì phải bán trả nợ. Cuối cùng vì thất vọng, Tường Tử trở nên bê tha và chết trên con đường phủ đầy tuyết. Thông điệp của truyện là, trong một xã hội đã thối nát thì mọi nỗ lực cá nhân để cải thiện đời sống chỉ như dã tràng xe cát mà thôi!
(2)Sự kiện lầu Cảnh Minh: vào năm 1948, hơn 20 lính không quân Mỹ đã cưỡng hiếp tập thể các cô gái quý tộc Trung Quốc. Sau khi xảy ra sự kiện đó, chính phủ dân quốc lập tức hạ lệnh phong tỏa tin tức, không hề ra lệnh bắt giữ tội phạm, trái lại còn lấy lý do xử lý hoạt động dâm ô mà thẩm vấn phụ nữ Trung Quốc, tất cả là vì sợ “ảnh hưởng đến bang giao hai nước Mỹ – Trung”.
Về Thẩm Sùng Minh: Tiểu nữ bất tài, không tìm được thông tin sự kiện có liên quan.