Beta: Tiên Thái Phi.
Tứ Công chúa Trần Viện đặt bút lông trong tay xuống, nhìn bản kinh Phật mà chính tay nàng vừa mới chép trên nền giấy Tuyên Thành, hơi ngây người. Thị nữ đứng một bên dâng khăn ướt lên, Trần Viện lấy lại tinh thần, nhận lấy chiếc khăn tỉ mỉ lau tay.
Ngón tay tinh tế thon dài, móng tay mượt mà trơn bóng, luôn thu hút ánh mắt của người nhìn. Nhưng mà, càng làm cho người ta chú ý, chính là vẻ mỹ mạo kinh người của vị Công chúa điện hạ tôn quý này. Vô cùng giống với dung mạo của Nguyên Liệt Hoàng hậu đã qua đời, được xưng là đệ nhất mỹ nhân Tứ Công chúa Trần Viện, là nữ nhi được Hoàng đế sủng ái nhất trong hoàng cung.
Tứ Công chúa ngẩng đầu lên nhìn cảnh hoàng hôn bên ngoài, nhẹ giọng nói: "Thời gian trôi qua thật nhanh. Bổn cung vốn tưởng rằng sẽ rất lâu, không nghĩ tới, mới chớp mắt một cái mà đã trôi qua một năm rồi."
Thị nữ đứng bên cạnh nhẹ giọng trả lời: "Ba ngày nữa chính là ngày giỗ của tiên Hoàng hậu, Công chúa thành tâm sao chép kinh Phật như thế, nương nương trên trời nhất định sẽ nhìn thấy."
Biểu tình của Tứ Công chúa vô cùng lãnh đạm: "Nhìn thấy? Đó chẳng qua chỉ là những lời viển vông tầm thường để lừa mình dối người, tự an ủi bản thân mà thôi."
Thị nữ không dám lên tiếng nữa. Một năm nay, uy thế của Công chúa càng lúc càng dâng cao. Tuy dung mạo cực kỳ giống với Nguyên Liệt Hoàng hậu đã qua đời, nhưng tính tình thì lại hoàn toàn khác biệt. So với Nguyên Liệt Hoàng hậu nhân từ ung dung, thì Tứ Công chúa lại lạnh lùng và nghiêm khắc hơn rất nhiều.
Có điều, chuyện này cũng rất bình thường. Tứ Công chúa là Đích Công chúa duy nhất của Hoàng thượng, cho nên thân phận tôn quý vô cùng. So với lúc Nguyên Liệt Hoàng hậu là phi tần khi còn sống, tất nhiên uy thế liền khác trước rồi.
Cung nhân bên ngoài nhẹ nhàng tiến vào, nhún người hành lễ: "Bẩm Công chúa, Hoàng thượng tuyên triệu."
Tứ Công chúa hơi nhíu mày, ẩn trong biểu tình rõ ràng là sự không kiên nhẫn, ngữ khí lạnh nhạt nói: "Bổn cung biết rồi, chắc phụ hoàng lại muốn đàm đạo chút chuyện ngày thường. Bãi giá."
"Vâng, Công chúa."
Nhìn Tứ Công chúa xoay người làm làn váy dài xòe ra, tung bay nhẹ nhàng trong gió, vẻ mặt của cung nhân mới đến vừa ngưỡng mộ vừa sùng bái, lẩm bẩm nói: "Không hổ danh là Tứ Công chúa điện hạ, rất có khí thế."
Cung nhân đứng một bên thoáng nhìn qua nhắc nhở, nghiêm túc nói: "Học quy củ cho tốt, Công chúa Điện hạ không phải là người mà ngươi có thể nghị luận."
Kiến Chương cung.
Hoàng đế sủng ái Tứ Công chúa có lẽ đã đến mức cực hạn, so với phần lớn các Hoàng tử khác thì cảm giác tồn tại của nàng còn nhiều hơn bọn họ.
"Viện nhi, vài ngày nữa là ngày giỗ của mẫu hậu con, mặc dù bây giờ không nên nói chuyện này, nhưng mà trẫm nghĩ, nhất định mẫu hậu con sẽ không để ý. Con cũng không còn nhỏ nữa, cân nhắc một chút về chuyện chung thân đại sự đi, được không?"
Sự tận tình khuyên bảo của Hoàng đế không làm cho Tứ Công chúa thấy cảm kích: "Nhị tỷ, Tam tỷ còn chưa gả đi, nữ nhi vội vàng làm gì? Phụ hoàng bận trăm công ngàn việc mỗi ngày, không cần nhọc lòng vì nữ nhi."
Hoàng đế thở dài, sao có thể không lo lắng đây? Nếu là những nữ nhi khác thì thôi, nhưng Viện nhi là hài tử của Thường nhi. Hơn nữa, khi con bé trưởng thành còn giống Thường nhi như vậy, giống đến mức như đúc cùng một khuôn, chỉ cần hắn không thay lòng đổi dạ, thì hắn không thể không lo lắng cho Viện nhi.
Huống chi, đứa nhỏ này không còn mẫu thân. Nếu mẫu thân nó vẫn còn sống, có lẽ những chuyện như tuyển chọn phò mã thì cũng không đến lượt hắn phải bận tâm.
Vương Hoàng hậu cáo ốm một năm, ru rú trong tẩm điện, từ một người đang sống sờ sờ khỏe mạnh trở thành một con ma ốm yếu. Ngay cả Thái tử cũng rất ít khi thấy nàng ta, huống chi là những Hoàng tử, Công chúa khác? Vì vậy, chuyện lựa chọn phò mã cho Công chúa thì không thể trông cậy vào Hoàng hậu được rồi.
Có điều, cho dù Hoàng hậu khỏe mạnh, có thể trông cậy vào, nhưng chỉ cần nghĩ đến việc đó thì Hoàng đế cũng không yên tâm. Hơn nữa, trong một năm này, Tứ Công chúa đã thay đổi rất nhiều. Từ một vị Công chúa ngây thơ lương thiện, không hiểu thế sự, bây giờ trở thành một vị Điện hạ lạnh lùng thâm trầm, kiên cường bất khuất. Hoàng đế đều nhìn thấy hết nhưng lại hoàn toàn không giúp được gì.
Thật ra Hoàng đế cũng biết, nữ nhi mà hắn yêu quý nhất này đang ép buộc mình phải trưởng thành.
Tiểu Bát năm nay vừa tròn mười bốn tuổi, sau khi trải qua sự thống khổ khi mất đi mẫu thân thì tính tình đã biến đổi rất nhiều. Tiểu Bát trở nên lầm lì nóng nảy, ít khi vui vẻ, mà Tứ Công chúa phải chăm sóc tiểu Bát, cho nên nàng không thể không trở nên kiên cường sắc bén, sẵn sàng nghênh chiến phản công. Như vậy mới có thể bảo vệ tốt đệ đệ mà nàng thương yêu.
Hoàng đế nhìn khuôn mặt lạnh lùng của nữ nhi, bất đắc dĩ nói: "Nếu con chưa nghĩ đến, cũng không có ý kiến, vậy thì phụ hoàng sẽ làm chủ cho con, chờ khi tuyển được người ưng ý rồi thì trẫm sẽ cho con xem mặt."
Tứ Công chúa rũ mi mắt xuống, hờ hững nói: "Sắp đến ngày giỗ của mẫu hậu rồi, huống chi còn phải giữ đạo hiếu ba năm, hà tất gì phụ hoàng phải sốt ruột chọn phò mã cho nữ nhi như vậy? Sao nào, thấy nữ nhi ở lại hoàng cung nên chướng mắt sao? Muốn đuổi nữ nhi ra ngoài chứ gì?"
Ai mà nghe những lời này thì đều cảm thấy chói tai, có phải không? Hoàng đế thở dài, mở miệng nói: "Con biết rõ là phụ hoàng không có ý này, cũng không nên nói những lời để thử lòng phụ hoàng như vậy. Viện nhi, con còn nhỏ, không cần ngụy trang bản thân đến mức mạnh mẽ như thế đâu, phụ hoàng là người mà con có thể dựa vào."
Vẻ mặt Hoàng đế già nua, ánh mắt ôn nhu, giọng nói nhẹ nhàng từ tốn: "Mẫu hậu con qua đời, các con đều ở dưới đôi cánh của phụ hoàng. Tiểu Tứ, con, tiểu Bát và tiểu Thập đều như vậy, phụ hoàng sẽ gánh luôn phần của mẫu hậu con để bảo hộ các con."
Vì thế, con không cần phải gắn gai nhọn lên người để bảo vệ bản thân, học cách nương tựa vào phụ hoàng đi.
Hoàng đế nở nụ cười chân thành rồi thay đổi ngữ khí, nhẹ nhàng nói: "Tuy con muốn giữ đạo hiếu ba năm, nhưng vẫn phải định người trước. Nếu không vị hôn phu tốt bị người khác chọn mất thì biết làm thế nào? Mẫu hậu con ở trên trời, nhất định cũng lo lắng về chuyện hôn nhân đại sự của con."
Tứ Công chúa cúi đầu xuống, vẻ mặt vẫn không thay đổi, mím môi khẽ nói: "Nữ nhi đã biết."
Nàng biết phụ hoàng quan tâm nàng, yêu thương nàng, so với những tỷ muội khác thì nàng nhận được quá nhiều. Nhưng sự thống khổ khi mất đi mẫu phi vẫn mãi dày vò nàng, khiến cho nàng thấy không có cảm giác an toàn.
Hơn nữa, trong một năm này, quan hệ giữa Tam Công chúa và nàng đã chuyển biến xấu kịch liệt. Nguyên nhân cũng không phức tạp, Hoa Thường được truy phong thành Hoàng hậu, mà Hoàng hậu qua đời thì tất cả con cái đều phải giữ đạo hiếu ba năm.
Hoa Chi Công chúa mười tám tuổi, Tam Công chúa mười bảy tuổi đều bị lỡ dở. Năm nay, Hoa Chi Công chúa đã mười chín, Tam Công chúa thì cũng mười tám, nhưng phụ hoàng lại không hề quan tâm. Ngược lại, phụ hoàng ngày ngày đều lo lắng cho nàng, sao có thể không khiến cho người khác đố kỵ đây?
Hoa Chi Công chúa thì còn tốt, tính tình ôn nhu kiên định, hòa ái dễ gần, cho dù số mệnh thăng trầm, nhưng Hoa Chi Công chúa cũng chưa từng một lời oán trời trách đất. Còn Tam Công chúa thì kém xa nhiều lắm, thái độ vô cùng lãnh đạm, lúc gặp mặt, nàng ta không hừ lạnh đã là rất tốt rồi.
Không phải là Hoàng đế không biết những phong ba sóng gió giữa các nữ nhi, chỉ là hắn không nhịn được mà lo lắng cho Viện nhi mà thôi, vì đây là hài tử mà Thường nhi lưu lại... Còn nhóm tỷ muội Hoa Chi, tốt xấu gì thì còn có Thục phi quan tâm, không phải sao?
Nhìn khuôn mặt ôn nhu, biểu tình quật cường của nữ nhi, Hoàng đế khẽ cười. Thường nhi, nàng có thấy không, ta đang rất nỗ lực để bảo hộ hài tử của chúng ta, hi vọng bọn chúng có thể sống hạnh phúc, khỏe mạnh trưởng thành.
Thời gian không ngừng trôi đi, bất cứ điều gì cũng sẽ không ngừng lại, rồi sẽ có một ngày mọi người quên đi Nguyên Liệt Hoàng hậu, quên đi lịch sử. Nhưng mà chúng ta, ta và bọn nhỏ sẽ mãi mãi nhớ nàng. Hi vọng một ngày nào đó trong tương lai, thời điểm mà ta nhớ tới nàng một lần nữa, ta không còn thống khổ đến tan nát cõi lòng nữa, mà là mỉm cười hoài niệm.
Tứ Công chúa đứng dậy, mím môi nói: "Nếu không còn chuyện gì nữa, thì nữ nhi xin cáo lui trước."
Xoay người nửa chừng, Tứ Công chúa do dự một chút, rồi lên tiếng nói: "Chiến sự nơi biên cương oanh oanh liệt liệt, phụ hoàng đã dốc hết sức lực, hao tổn tinh thần, cho nên người phải chú ý nghỉ ngơi, bảo trọng thân thể."
Nói xong nàng liền bước nhanh ra ngoài.
Hoàng đế ngây người một lúc, nhìn cảnh tượng nữ nhi vội vội vàng vàng giống như chạy trối chết, cuối cùng cũng lộ ra nụ cười vui vẻ. Nữ nhi có mối cừu hận sâu sắc với Bắc Mông và Hồ Nhung, nay có thể nói ra những lời khuyên nhủ an ủi như vậy, e là cũng chẳng dễ dàng gì. Có điều, tình hình nơi biên cương quả thật là không lạc quan chút nào. Hoàng đế chậm rãi thu lại ý cười, mở sổ con trong tay ra, vùng mi tâm lại hiện lên vết hằn sâu.
Tình hình chiến đấu nơi biên cương càng ngày càng thê thảm. Chiến khu chủ chốt vẫn tập trung ở Bắc Mông như trước. Sau khi Đại Hãn Bắc Mông mất đi người kế vị thì hắn gần như trở nên điên cuồng, dốc hết toàn lực triển khai cuộc chiến tranh sinh tử, vừa đánh vừa thủ với Đại Lương.
Cách đánh tốc chiến tốc thắng, chiến lực của Đại Lương không bằng Bắc Mông. Đại Lương chuyên về đánh lâu dài, dùng thời gian và lương thảo, dùng sự bền bỉ để đánh bại quân địch. Nhưng mà bởi vì cái chết của Hoa Thường, cho nên toàn bộ nhiệt huyết của cả đế quốc đều dâng trào. Nếu lúc này mà vẫn giữ cách chiến đấu kéo dài như trước, chỉ chú trọng chiến thuật, e là sẽ vô cùng đả kích đến sĩ khí. Vì thế phải chiến đấu với Bắc Mông vốn chiếm ưu thế về cách đánh này cũng là điều vạn bất đắc dĩ.
Dưới tình huống như vậy, chỉ đối phó với một mình đối thủ mạnh như Bắc Mông đã là chuyện vô cùng khó giải quyết rồi, còn về Hồ Nhung thì đành bất lực. Vì vậy, Đại Lương và Hồ Nhung trên cơ bản quyết định duy trì trạng thái mười năm trước, giằng co trường kỳ, có thể xung đột quy mô nhỏ, nhưng không nổ ra chiến tranh quy mô lớn.
Tuy Hoàng đế khá hài lòng về tình huống hiện tại, nhưng cuộc chiến tranh với Bắc Mông đã làm Đại Lương thương vong nặng nề. Còn phía Hồ Nhung, hắn cũng không thể không suy xét đến việc bọn họ đột kích bất ngờ hoặc tấn công thần tốc, cho nên phải kiểm soát binh lực.
Nhưng loại tình huống này sẽ không kéo dài. Kỵ binh Bắc Mông không phải là vô hạn, mà Hồ Nhung cũng không có khả năng cứ mãi trầm mặc như vậy.
Hoàng đế day day trán, thở dài.
Chiến tranh là một cái máy xay thịt, rất là đáng sợ, là con quái vật có thể nuốt chửng con người. Tuy Đại Lương muốn tập trung binh lực để đánh tốc chiến tốc thắng với Bắc Mông, nhưng mà phải điều một phần binh lực để kiềm chế Hồ Nhung. Ý nghĩ như vậy thì căn bản chỉ có thể nghĩ trong đầu, không thể nào thành hiện thực được. Có rất nhiều chiến thuật, thế nhưng để áp dụng trong thực tiễn, thì còn rất nhiều điểm hạn chế.
Chiến tranh trong thời đại này, chủ yếu là kiên quyết liều mạng, không dâng hiến tính mạng là điều không thể nào. Loại thương vong bi thảm này, bất luận là Đại Lương hay Bắc Mông thì đều khó tiếp nhận. Nhưng mà, nếu đem ra so sánh, thì Đại Lương khó tiếp nhận hơn, bởi vì đế quốc nông nghiệp này quá khổng lồ, cũng quá ôn hòa.
Một năm, chỉ mới một năm mà thôi.
Bắc Mông là dân tộc du mục cường hãn. Nếu dốc toàn quốc lực cho chiến tranh, có đánh liên tục mười năm thì cũng không có gì kỳ quái, hai mươi năm cũng có thể miễn cưỡng chống đỡ được. Còn về Đại Lương, một trận chiến tranh tàn khốc kéo dài đến bốn mươi, năm mươi năm thì cũng không thành vấn đề.
Hán Vũ Đế tại vị năm mươi bốn năm, trong đó có đến bốn mươi lăm năm là đánh giặc. Hơn nữa phần lớn đều là chiến thắng, quốc lực chính là người Hán, không tranh thắng bại nhất thời, chỉ dùng quốc lực cũng có thể làm chết ngươi rồi.
Nhưng hiện giờ Đại Lương lại đang dùng sở đoản của mình để đối đầu với sở trường của Bắc Mông, đương nhiên phải chịu khổ không ít. Hoàng đế đặt sổ con trong tay xuống, nhíu mày thật sâu, Hồ Nhung... Kham Bố vương...
Chương 198: Lâm Nghi Công Chúa (Hai)
Edit: Huyền Hiền viện.
Beta: Mai Thái phi.
Chính Nhị phẩm Tri sự Xu Mật viện đương triều Chu Dần hoàn toàn có đủ tư cách xưng làm lão thần. Nếu bàn đến chuyện quyền thần thì không đến lượt ông ta, nhưng nếu luận về cây to rễ sâu, thì ông ta tuyệt đối là người cầm cờ chạy trước. Chu Dần là loại người tiêu biểu cho kiểu bo bo giữ mình, hạ thấp luồn lách. Ông ta luôn nổi tiếng là người thuận theo thời thế và ba phải. Nhưng mà hiện giờ người khôn khéo như Chu Dần lại gặp nan đề lớn nhất trong đời.
Mấy ngày trước đây, Hoàng đế thăm dò tin tức về ấu tử của ông ta. Tuy chưa lộ ra điều gì nhưng ông ta hiểu rất rõ ý nghĩ của Hoàng đế. Nguyên Liệt Hoàng hậu qua đời đã hai năm, qua thêm một năm nữa thì các Hoàng tử và Công chúa cũng kết thúc việc giữ đạo hiếu. Những vị đang trong tuổi thành thân hoặc đã qua tuổi thành thân thì đều có thể tiến hành cưới hỏi. Vậy nên ấu tử Chu Minh Thế của ông ta cũng bị đưa vào danh sách ứng cử viên cho chức danh phò mã sao?
Minh Thế là ấu tử khi Chu Dần quá năm mươi tuổi mới có được, cho nên ông ta yêu thương đứa con này nhất, năm nay chỉ mới mười tám tuổi. Khi ấu tử còn nhỏ, có vị cao tăng đã nói với ông ta rằng không nên cho ấu tử thành hôn sớm, vì vậy nên Chu Dần mới chần chừ, chậm trễ cho đến hôm nay.
Nhưng mà tất cả các đại gia tộc đều giống nhau. Tuy nói rằng không nên thành hôn sớm, nhưng người được chọn để trở thành đối tượng thành thân chắc chắn đã được xét tuyển từ sớm. Ví dụ như chất nữ của thê tử Chu Dần, bởi vì phụ mẫu mất sớm mà đã ở nhà ông ta nhiều năm nay.
Giữa ấu tử và chất nữ quả thật không có hôn ước với nhau. Nhưng trước khi thê huynh (anh vợ) nhắm mắt đã phó thác đứa bé cho nhà bọn họ chăm sóc, vậy nên Minh Thế và Vi Nhi cũng được xem là thanh mai trúc mã cùng nhau lớn lên. Người phụ thân như Chu Dần tuy không quá quan tâm đến nội trạch, nhưng ông ta biết tình cảm giữa Minh Thế và Vi Nhi cũng không tệ.
Các trưởng bối trong nhà đối với chuyện này cũng cảm thấy rất vui mừng.
Thê huynh Văn Diễn của Chu Dần có xuất thân dòng dõi thư hương, bản thân cũng vô cùng có tài, đã từng làm chức Quận thủ, có thể nói là xưng bá một phương, cũng môn đăng hộ đối với Chu thị. Vì thế cho dù gia tộc Văn thị khó khăn, muội muội hắn cũng có thể gả cho Chu Dần làm thê tử.
Hiện giờ tuy gia tộc Văn thị xuống dốc, nhưng mối quan hệ giữa Chu Dần và thê huynh vẫn luôn rất tốt. Nếu nói hai người họ được xem là bạn tri kỷ thì cũng không sai. Chu Dần còn quan tâm vị chất nữ này hơn cả thê tử nữa. Huống chi ấu tử Minh Thế không phải là đích trưởng tử, cho nên hôn sự của nó cũng không cần phải quá suy tính. Tuy song thân của Vi Nhi đã qua đời, mệnh cách không tốt, nhưng phẩm hạnh, hành động cử chỉ nhiều năm nay của nàng thì bọn họ đều để ý quan sát. Vì vậy những vấn đề trên cũng không phải là chuyện to tát gì.
Cho nên tuy hai đứa nhỏ không có hôn ước, nhưng phần lớn người trong gia tộc đều tỏ ra đồng tình với việc này.
Chu Văn thị nhìn lão gia nhà mình cau mày, vẻ mặt buồn phiền, mở miệng nói: "Lão gia, ta nhìn Vi Nhi lớn lên, con bé lại là cốt nhục duy nhất mà đại ca lưu lại trên đời, đương nhiên là ta yêu mến nó. Nhưng mà hiện tại Hoàng thượng lại có ý gả Công chúa cho chúng ta, chúng ta không thể cự tuyệt được. Còn chuyện chung thân đại sự của Vi Nhi, ta sẽ bỏ thêm nhiều công sức để tìm được mối hôn sự ưng ý."
Chu Dần cau mày, không nói gì. Tuy ông là người khôn khéo, luôn bo bo giữ mình, nhưng dù sao cũng xuất thân vọng tộc, ở vị trí cao nhiều năm, cho nên tận sâu trong xương tuỷ ông luôn xem trọng uy tín phẩm hạnh con người, một lời nói là một gói vàng.
Mặc dù hai đứa nhỏ không có hôn ước, nhưng hôn sự của Vi Nhi đã bị trì hoãn đến mười sáu tuổi. Vốn dĩ phải đề cập đến chuyện này cho hai đứa, nhưng hiện giờ vì Công chúa mà gả Vi Nhi ra bên ngoài, còn có thể làm người thanh bạch được sao?
Còn bên phía của Hoàng thượng thì làm thế nào bây giờ?
Hoàng đế cũng không nói rõ ý định gả Công chúa, chỉ mập mờ đề cập đến, hỏi ấu tử nhà ông đã có hôn ước hay chưa, như thế làm sao ông có thể mở miệng cự tuyệt đây?
Huống chi, chuyện tốt như vậy người khác tưởng tượng cũng không có, vậy mà lại có người muốn từ chối ư? Đặc biệt hắn lại là con cáo già tinh ranh gian xảo.
Chu Dần thở ra một hơi thật dài.
Nhưng mà, rất nhanh sau đó, Chu Dần không cần vì hôn sự của bọn nhỏ nhà mình mà phiền não nữa, bởi vì đã xảy ra một sự kiện lớn hơn cả chuyện này.
Hồ Nhung trình quốc thư, hi vọng hai nước kết thúc chiến tranh, cùng nhau chung sống hòa bình. Đại vương Kham Bố của Hồ Nhung hi vọng cầu thân với một vị Công chúa, lấy lễ nghĩa của vãn bối đích thân đến thượng kinh để triều kiến Hoàng đế bệ hạ của Đại Lương.
Hơn nữa người ta cũng "biện hộ" về sự kiện Trầm Đô hai năm về trước, giải thích rằng lúc đó bọn họ bị người Bắc Mông "bắt ép" phải xuất binh. Người Hồ Nhung bọn họ thế yếu, thật sự không dám phản kháng lại, vì thế bọn họ "bị bắt" xuất binh. Vả lại lúc ở Trầm Đô, sau khi không còn bị người Bắc Mông khống chế nữa thì bọn họ đã rời đi rất nhanh, cũng không cướp bóc dân chúng như Bắc Mông, như thế còn chưa đủ chứng minh sự trong sạch của bọn họ sao?
Đại Lương chấp nhận lời giải thích đó. Có những lúc, người ta không cần biết sự thật, chỉ cần một bậc thang để đi xuống mà thôi.
Mà trong quốc thư của Hồ Nhưng, từng câu từng chữ đều rất chân thành tha thiết, hơn nữa cũng hạ mình rất thấp. Nhìn từ góc độ khác mà nói, thì đây cũng coi như là hạ thấp mình xưng thần với Đại Lương.
Đánh giặc vì cái gì? Chẳng lẽ là vì nguyên nhân đất đai cằn cỗi và khí hậu khắc nghiệt của Hồ Nhung hay sao? Chắc chắn là không phải.
Kết quả tốt nhất của một cuộc chiến tranh cũng chỉ là khiến cho đối phương xưng thần, hàng năm tiến cống mà thôi. Hơn nữa có nhiều lúc kết quả cũng không được như thế, nhiều lắm thì cũng chỉ đổi lại được chút bồi thường, không phải sao?
Triều đình loạn thành một đoàn, tất cả mọi người đều tranh luận nên trả lời vị Kham Bố vương của Hồ Nhung này thế nào.
Nhưng mà dường như không ai có ý phản đối về bức quốc thư kia. Suy cho cùng thì còn có điều kiện nào tốt hơn điều kiện này hay sao? Vấn đề được mọi người tranh luận cũng chỉ là vị "Công chúa" được chọn sẽ là ai.
Công chúa ở đây là nữ tử tôn thất, quý nữ thế gia vọng tộc hay là một nữ tử bất kỳ nào đó?
Tất cả mọi người đều hi vọng sẽ sớm nhanh chóng chọn được người, sau đó trả lời cho đối phương, thông báo cho Kham Bố vương đến thượng kinh. Đến lúc đó thì có thể xác nhận được đối phương có bao nhiêu thành ý.
Chỉ cần hắn nguyện ý đích thân đến thượng kinh, như vậy thì tất cả mọi chuyện đều có thể giải quyết rồi. Nếu đổi vị trí, cho dù trong bất cứ tình huống nào, thì Hoàng đế bệ hạ của chúng ta cũng sẽ không đến Hồ Nhung.
Mà thời khắc này, tại hậu cung, gió thổi lồng lộng, mây đen che kín.
Tố Chi Công chúa đã xuất giá nhiều năm, nhưng mà gần đây theo phu quân quay về thượng kinh, được Hoàng đế triệu tiến cung ở trong thời gian ngắn. Lúc này, các vị Công chúa tụ họp lại bên nhau, xem ra cũng rất khó có được dịp đầy đủ như thế này.
Năm nay Hoa Chi Công chúa đã hai mươi tuổi, càng ngày nàng càng trở nên xinh đẹp. Tuy khuôn mặt hao hao giống Thục phi, nhưng tính tình của nàng thì lại rất nhu hòa dịu dàng, giọng nói hòa nhã nhẹ nhàng: "Khó có dịp Đại tỷ được tiến cung, cuối cùng tỷ muội chúng ta cũng có thể cùng nhau trò chuyện rồi."
"Đúng vậy, đã lâu không được gặp các vị tỷ muội." Tố Chi Công chúa tươi cười thoải mái.
Sắc mặt Tam Công chúa lạnh lùng. Nàng nhìn vẻ mặt nhẹ nhàng thoải mái, tràn đầy hạnh phúc của Tố Chi Công chúa thì cảm thấy vô cùng chói mắt, liền mở miệng nói với vẻ châm chọc: "Đại tỷ cười rất hạnh phúc thư thái. Mà cũng phải, lần này Hồ Nhung hòa thân cũng không liên quan gì đến Đại tỷ, cho nên tất nhiên tâm trạng tỷ thoải mái, chúng ta không thể nào bằng."
Sắc mặt Tố Chi Công chúa cứng đờ, đây là muốn làm cho nàng trở thành kẻ thù của tất cả các Công chúa ư? Trong số các Công chúa có mặt ở đây thì cũng chỉ có một mình nàng là người đã xuất giá.
Hoa Chi hơi nhíu mày, trách mắng nói: "Tam muội, sao có thể nói chuyện với Đại tỷ như vậy?"
Tam Công chúa hừ lạnh một tiếng, vùng mi tâm hiện lên vài phần lệ khí: "Ta nói không đúng sao? Công chúa vừa đến tuổi cũng không ít, hiện giờ có ai mà trong lòng không lo sợ đâu chứ? Cũng chỉ có Đại tỷ là có tâm trạng tổ chức tiệc trà, để bọn muội muội nói cười nịnh nọt giải buồn cho tỷ."
Tố Chi quả thật rất xấu hổ, nhưng vì tính tình của nàng luôn ôn hoà, cho nên nàng không biết phản bác lại muội muội như thế nào.
Hoa Chi biết mình không quản được vị muội muội này, vì thế cũng cảm thấy xấu hổ theo.
Tứ Công chúa ngồi bên cạnh Tố Chi Công chúa, nhẹ nhàng rót một ly trà đầy, lạnh nhạt nói: "Tam tỷ vượt quá quy củ rồi."
Ánh mắt Tam Công chúa giống như dao nhọn bắn lên trên người Tứ Công chúa, sau đó nàng cười nhạo một tiếng, mở miệng nói: "Cũng đúng, Tứ muội cũng không có gì phải lo lắng, nghe nói phụ hoàng đã bắt đầu vì muội mà tuyển chọn phò mã, mệnh thật là tốt."
Ánh mắt Tứ Công chúa trầm xuống, cũng không tiếp tục tranh cãi với Tam Công chúa nữa.
Hiện giờ Tam Công chúa thấy ai thì đâm chọt người đó, cũng không có gì kỳ quái. Thật ra những Công chúa vừa độ tuổi cũng chỉ có ba người là: Hoa Chi Công chúa, Tam Công chúa và Tứ Công chúa.
Chắc chắn Tứ Công chúa là người được loại trừ đầu tiên. Ai đi hòa thân cũng được, nhưng Tứ Công chúa thì không thể.
Mà so sánh giữa Hoa Chi Công chúa với Tam Công chúa, thì người được chọn đi hoà thân, khả năng cao là Tam Công chúa.
Một mặt là vì Hoa Chi Công chúa được sủng ái, Hoàng đế và Thục phi chắc chắn sẽ không bỏ được. Mặt khác, thân thể Hoa Chi Công chúa không tốt, chọn người đi hòa thân tất nhiên là phải chọn người khoẻ mạnh rồi.
Vì vậy, bây giờ Tam Công chúa cuồng nộ như thế thì cũng không khó lý giải. Hi vọng hiện giờ của nàng chính là chọn một nữ tử trong tôn thất hoặc quý nữ nào đó phong làm Công chúa.
Có ai mà nguyện ý hòa thân gả đi xa đâu? Khí hậu Hồ Nhung không phải là chuyện đùa, lỡ như chết ở nơi xa lạ thì làm sao bây giờ?
Các tiểu Công chúa nhìn thấy các vị tỷ tỷ giao phong cũng không dám nhiều lời. Mẫu phi của những vị tiểu Công chúa này đều có địa vị không mấy vinh hiển, cho nên vinh sủng cũng có hạn.
Tố Chi Công chúa là trưởng tỷ, tất nhiên địa vị khác biệt. Mẫu phi của Hoa Chi và Tam Công chúa là một trong Tứ phi, cho nên địa vị các nàng tôn quý. Tứ Công chúa thì càng không cần phải nói. Nàng là Công chúa của Nguyên Liệt Hoàng hậu, ngay cả Thái tử cũng phải tránh đi mũi nhọn này.
Vì thế, cuộc tụ họp của các Công chúa cứ như vậy mà tan rã trong bầu không khí chẳng vui vẻ gì.
Tứ Công chúa trầm mặc bước ra khỏi cung điện, ngồi trên kiệu, ánh mắt lãnh đạm, mở miệng nói: "Bãi giá Kiến Chương cung."
Các cung nhân sửng sốt trong chốc lát, thấp giọng nhận lệnh.
Tứ Công chúa ngồi trên kiệu nhớ lại những lời ngày hôm qua Tứ ca đã nói với nàng.
Phụ hoàng đã vì nàng mà nhìn trúng ấu tử Chu Minh Thế của Chính Nhị phẩm Tri sự Xu Mật viện Chu Dần. Chu thị thì không cần phải nói, là danh gia vọng tộc có căn cơ gốc rễ, lại còn luôn nội liễm giữ mình, gia thế như vậy là rất ổn. Hơn nữa, Chu Minh Thế cũng tài hoa hơn người, phẩm hạnh tốt đẹp, là nhân vật vang danh khắp thượng kinh. Vì thế phụ hoàng nhìn trúng hắn thì cũng không có gì là kỳ quái.
Gia thế như vậy, phẩm hạnh như vậy, nếu không phải phụ hoàng thật sự yêu thương nàng, thì cũng sẽ không vì nàng mà lo nghĩ, suy xét như thế. Suy cho cùng, gả Công chúa là hoạt động mang lại lợi ích nhất. Tố Chi Công chúa được gả cho một võ tướng. Mấy năm nay biên quan vẫn luôn không được an bình. Chiến tranh cứ đánh hết năm này qua năm khác, làm sao không vỗ về an định quân đội võ tướng được đây?
Lúc trước, Hoa Chi Công chúa cũng nhờ Thục phi liều mạng phản đối mới không bị chỉ hôn cho võ tướng. Tuy vậy, thực đáng tiếc cho những nỗ lực của Thục phi cuối cùng cũng chảy về biển đông.
Tứ Công chúa khẽ cười khổ, Tứ ca và Chu Minh Thế có cũng chút giao tình. Mấy ngày trước, Chu Minh Thế đến tìm Tứ ca, thành khẩn kể cho Tứ ca nghe tình huống hiện tại của bản thân.
Chính xác, người này là một quân tử.
Vì không có hôn ước ràng buộc, nên hắn không tiếc chọc giận Hoàng đế và Hoàng tử, hi sinh tiền đồ tương lai của bản thân mình để giữ trọn lời hứa.
Có lẽ đây là ý trời.
Kiến Chương cung.
Hoàng đế nhìn nữ nhi đứng trước mặt mình, giống như lần đầu tiên hắn nhìn thấy Hoa Thường.
"Con nói cái gì?" Thanh âm già nua nghẹn ngào mang theo ẩn nhẫn, phẫn nộ và tuyệt vọng.
Tứ Công chúa ngẩng đầu, đôi mắt kia rất giống Hoa Thường. Nàng nhìn thẳng vào phụ hoàng của mình, vẻ mặt bình tĩnh, giọng nói kiên định: "Phụ hoàng, nữ nhi nguyện ý gả cho Hồ Nhung."