Đầu tiên là trong sinh hoạt có rất nhiều chuyện không tiện. Ví dụ như, không có điện thoại, không có hố xí tự hoại, không có internet. Nhất là thứ cuối cùng, đối với một sinh viên mà nói, chuyện này đúng là đòi mạng.
Còn có một việc khiến người ta sống không bằng chết, chính là sống mà phải chịu giày vò, ví dụ như, ngồi tù.
Cuộc sống nơi khuê phòng thời xưa đối với một cô gái hiện đại mà nói, cũng tương đương với ngồi trong trại giam. Tờ mờ sáng đã phải thức dậy, rửa mặt, chải đầu, thay quần áo xong phải tới chỗ cha mẹ thỉnh an, ăn điểm tâm xong lại trở về phòng mình, không đọc sách thì cũng đánh đàn, thêu một đôi uyên ương. Nói chung, nếu không phát sinh chuyện gì bất khả kháng thì không thể ra khỏi cửa.
Mấy ngày đầu, Tạ phu nhân và mấy người khác còn cảm thấy có chút mới mẻ với tôi, sẽ đến thăm tôi, trò chuyện với tôi. Tôi cũng thuận tiện hiểu thêm về thế giới này. Lâu ngày, Tạ phu nhân trở về từ đường tiếp tục chép kinh Phật, chị dâu cũng bận rộn chuyện riêng.
Tôi buồn chán đến chết đi được, trong phòng cũng không có gì để tiêu khiển đành gọi Vân Hương dẫn đường đi tìm chị ba, Chiêu Kha.
Tạ Chiêu Kha ở tại Trích Nguyệt Các, rất có tính hình tượng. Cô ấy như một vầng trăng sáng trên trời, không biết tương lai sẽ là ai hái được.
Trích Nguyệt Các rộng lớn hơn Dưỡng Tâm Các của tôi một chút, cũng khí thế hơn. Tôi còn chưa bước vào đã nghe thấy một tiếng đàn sáo êm tai. Thì ra Tạ gia đặc biệt mời người tới dạy Tạ Chiêu Kha âm luật, ca múa.
Nha hoàn của Tạ Chiêu Kha, Bảo Bình, nhìn thấy tôi, lặng lẽ đi tới: “Tứ tiểu thư, tam tiểu thư còn phải luyện một lúc nữa mới được nghỉ.”
Tôi hỏi: “Mỗi ngày tỷ ấy đều phải luyện à?”
Bảo Bình nói: “Tam tiểu thư không có lúc nào rảnh rỗi, phải học thi từ ca phú sử kinh, phải biết cầm kỳ thư họa, nữ công cũng không thể lơ là.”
Tôi sai rồi, tôi vẫn cho rằng chỉ có phụ nữ đi làm thời hiện đại mới là khổ cực nhất, không chỉ phải kiếm tiền, sinh con mà ngay cả bóng đèn cũng phải tự mình thay, lại không biết rằng tài nữ thời cổ đại cũng không dễ làm, tất cả các kỹ năng đều phải học, hơn nữa còn dùng để lấy lòng một người đàn ông còn chưa biết mặt mũi thế nào.
Tạ Chiêu Kha đang gảy đàn. Hôm nay cô ấy mặc một bộ váy trắng, áo ngoài màu xanh nhạt, tóc đen vấn cao, lộ ra cần cổ trắng muốt thon dài, toàn thân thanh lệ, mềm mại như một nụ hoa sen.
Là chị em cùng một nhà, vì sao lại có sự cách biệt một trời một vực như thế? Nghe nói Tạ nhị phu nhân khi còn sống cũng vô cùng xinh đẹp, động lòng người mà.
Tôi thấy cô ấy vô cùng chăm chú, không tiện đi quấy rầy, đành phải mang theo Vân Hương trở về.
Tôi hỏi Vân Hương: “Đi đâu mới tìm được vài quyển sách để đọc?”
Vân Hương nhìn tôi như nhìn quái vật.
“Sao vậy?”
“Tiểu thư, người… người biết chữ từ khi nào vậy?”
Lúc này tôi mới nhớ ra Tạ Chiêu Hoa điên điên khùng khùng cả chục năm, đương nhiên không thể biết chữ. Tôi đành phải bừa bãi mượn năng lực quỷ thần, nói: “Đại khái là ông Trời thương hại, để tôi khôi phục thần trí, cũng bù lại những thiếu sót cho tôi.”
Vân Hương thật dễ lừa, ngay lập tức đã tin, đưa tôi tới Tàng Thư Các của Tạ phủ.
Tạ gia thuộc dòng dõi thư hương thế gia, có rất nhiều loại sách phong phú, phân loại sắp xếp chỉnh tề. Trên giá sách không có lấy một hạt bụi, còn xông hương chống mọt.
Tôi đuổi Vân Hương ra ngoài, tự mình thong thả đi qua các dãy giá sách, rất nhanh đã tìm được quyển “Đại Tề giang sơn chí”, vô cùng hứng khởi ngồi luôn trên sàn gỗ, mở sách ra đọc.
Hiện nay thiên hạ chia làm bốn phần, Tề quốc ở phía Đông, vì vậy mới lấy danh xưng là Đông Tề. Đông Tề, phía Đông giáp Huyền Hải, phía Bắc giáp Liêu, phía Tây giáp Tần. Rất xa ở phía Tây còn có Ly quốc không giáp biên giới. Đây là một thế giới xa lạ trong không gian song song.
Bốn quốc gia nối liền với nhau bởi một dòng sông tên gọi Hồng Hà, Hồng Hà chảy vào địa phận Đông Tề chính là sông Bích Lạc. Hai bên bờ Hồng Hà cảnh đẹp như tranh vẽ, tập trung vô số nơi du ngoạn, hưởng tuần trăng mật, an dưỡng. Trên sách sử Đông Tề, hàng nghìn năm qua đã xuất hiện cực kỳ nhiều thanh niên ưu tú, các phát minh cống hiến cho khoa học kỹ thuật cũng ùn ùn như nước chảy. Đại khái là vì gần sông, nhân dân ăn nhiều cá nên trí thông minh phát triển.
Sự uy hiếp lớn nhất đối với Đông Tề là nước Liêu ở phía Bắc, đau đầu giống như người triều Tống mỗi khi nhắc tới Liêu quốc, Tây Hạ vậy. Bọn họ là dân tộc du mục, mùa đông ngày ngày gặp tuyết tai, mùa xuân năm sau sẽ xuống phía Nam đánh cướp, ngay cả vợ con người ta cũng muốn giành, đúng là nhà nào cũng có nỗi khổ riêng. Đông Tề hiện nay không thấy xuất hiện một Hán Vũ Đế, tôi đoán chừng trong triều cũng đang chủ chiến, chủ hòa, cãi nhau hỗn loạn.
Tôi nghe Vân Hương nói, sức khỏe hoàng đế không tốt, thái tử đã chết. Cha tôi là thái phó, là sư phó của thái tử, thái tử đã chết, giờ không biết ông ấy đang làm cái gì. Thật ra, nhìn toàn bộ Tạ gia, giống như một gia đình hết sức bình thường trong giới thượng lưu, có vẻ như không liên quanh nhiều lắm tới tranh đấu chốn cung đình.
Còn tôi, chỉ việc ở lại nơi yên bình này, an toàn tu thân dưỡng tính, đợi ngày thượng tiên đuổi tôi về với nguyên thần là được.
“Là ai?” Phía sau có người hỏi.
Tôi giật mình, quay phắt đầu lại.
Một chàng trai đứng trong chỗ khuất, nho sam màu xanh nhạt rộng lớn nhẹ buông xuống, ánh mặt trời bao quanh đường viền của một thân thể thon dài.
“Cô là ai?” Anh ta lại hỏi.
Tôi đứng lên, nói: “Tôi là Tạ Chiêu Hoa.”
“Cô là tứ tiểu thư của Tạ gia?”
Tôi gật đầu.
Anh ta đi đến, chắp tay cúi chào tôi: “Tại hạ Tống Tử Kính, đã quấy rầy tiểu thư, mong tiểu thư thứ tội.”
A, cái tên này tôi đã nghe qua. Là gia sư mà trong phủ mời tới để dạy học cho “Quách Phù” và hai cậu anh họ họ Mã. Vân Hương từng mơ màng nhắc đến với tôi.
Thắt lưng thầy giáo Tống thẳng lên, nhưng đầu vẫn cúi thấp, giống như trên mặt tôi có thứ gì đó không nên có.
Tôi tò mò vươn người tới trước nhìn anh ta.
Tống Tử Kính hơn hai mươi tuổi, da trắng nõn, đôi lông mày thon dài thanh tú, đôi mắt phượng hơi nhếch lên trên, mũi rất thẳng, môi đầy đặn, thật là một thư sinh nhã nhặn tuấn tú. Hơn nữa, bị tôi nhìn chằm chằm bất nhã như vậy cũng bình tĩnh, ung dung, đúng là quân tử một phương, nhân phẩm đầy mình.
Lúc này tôi mới lùi về sau một bước, nói: “Tống tiên sinh dạy bọn nhỏ cực khổ rồi. Tiên sinh đã tan lớp rồi sao?”
Tống Tử Kính khom lưng: “Vâng. Tới tìm vài quyển sách.”
“Vậy thật khéo, tôi cũng đến tìm sách để đọc nhưng không quen, tiên sinh có biết tiểu thuyết, bút ký để chỗ nào không?”
“Cái gì?” Anh ta ngẩng đầu nhìn tôi, nghe không hiểu.
Tôi vội vàng sửa lại: “Nếu không, truyền kỳ cố sự, quỷ thần truyện ký cũng được.”
Tống Tử Kính lại kinh ngạc nhìn tôi. Lúc này tôi mới nghĩ ra, con gái thời xưa nếu không lén đọc “Mẫu Đơn Đình” thì nên thuộc lòng “Liệt Nữ Truyện”, đọc tạp văn dị sự như tôi dường như cũng không tốt lắm.
Thế nhưng Tống Tử Kính chỉ nhìn tôi một lát, sau đó lại cúi đầu, vươn một tay ra: “Tứ tiểu thư, mời đi bên này.”
Thân hình anh ta thon dài, cử chỉ tao nhã, có hương trà nhàn nhạt trên người.
Anh ta đưa tôi lên tầng trên. Trên tầng đơn giản, nhỏ nhắn, ánh sáng tràn ngập, xung quanh có những giá sách thấp. Tôi nhìn không chớp mắt, trên đây đúng là rất nhiều tiểu thuyết truyền kỳ, ca từ hí khúc vân vân.
Tôi vui vẻ chọn vài quyển, ôm vào trong lòng, gật đầu cảm ơn anh ta.
Anh ta khách sáo cười đáp lại tôi: “Tứ tiểu thư không cần khách khí.”
Tôi bịch bịch chạy xuống lầu, bỗng nhiên đứng lại, ngẩng đầu hỏi anh ta: “Tiên sinh giảng bài, tôi có thể đi nghe không?”
Tống Tử Kính sửng sốt một chút rồi nói: “Đương nhiên có thể.”
Tôi nói: “Vậy ngày mai tôi tới.”
Vân Hương biết tôi gặp Tống Tử Kính, gương mặt lập tức ửng hồng.
Tôi cười: “Tống tiên sinh này đúng là nhân vật ngọc thụ lâm phong. Nhưng tôi không hiểu, vì sao anh ta không đi thi tuyển công danh mà lại đến đây dạy học cho trẻ con?”
Vân Hương là một nhân viên tình báo rất tốt, cô ấy nói cho tôi biết: “Tống tiên sinh vốn là một trong những đại tài tử của Đông Tề chúng ta, bao nhiêu người vì muốn tiên sinh làm con rể mà đạp hỏng cửa nhà. Danh tiếng này nha, đã truyền tới phủ quốc cữu ở kinh thành, khiến cho tiểu thư Triệu gia động lòng. Nghe nói Triệu tiểu thư kia vừa béo lại vừa xấu, vừa lười lại vừa ngốc, nhưng sống chết vẫn phải gả cho Tống tiên sinh, Quốc cữu gia không thể làm gì khác, đành tới cửa cầu thân. Nhưng Tống tiên sinh là ai, tiên sinh mới không thèm nhìn đến Triệu tiểu thư ấy, lập tức từ chối. Việc này không biết ai truyền ra ngoài, ai ai cũng biết chuyện cười của Triệu tiểu thư. Quốc cữu gia ghi thù trong lòng, sau này Tống tiên sinh lên kinh đi thi, ông ta thu mua giám khảo, nhất định không cho Tống tiên sinh thi đỗ. Lúc đầu Tống tiên sinh còn không phục, liên tục thi bốn năm, nhưng lần nào cũng trượt. Đến năm thứ năm, tiên sinh thẳng thắn không vào trường thi, ở ngay bên ngoài tường thành viết văn. Lão gia nhà chúng ta đã ngưỡng mộ tài học của tiên sinh từ lâu, sau khi nghe nói đã chạy tới tường thành, cứu tiên sinh ra từ trong tay quan binh, sắp xếp tiên sinh dạy học trong phủ.”
Cô ấy nói một mạch, tôi vội vàng đưa trà cho cô ấy: “Vậy quốc cữu gia kia hãm hại văn nhân sĩ tử, hoàng đế không biết sao?”
Vân Hương nuốt một ngụm trà xuống, hạ giọng nói: “Thân thể hoàng đế không tốt, dưỡng bệnh trong thâm cung, quốc gia đại sự đều do Lý thừa tướng và quốc cữu gia định đoạt. Những chuyện này đều do nô tỳ nghe lão gia và đại thiếu gia nói chuyện khi đến thư phòng giúp đỡ trong lễ mừng năm mới.”
Không ngờ Tống Tử Kính nhìn có vẻ ôn hòa nhã nhặn thế kia mà cũng thật cứng rắn.
Tôi bỗng nói: “Nói vậy, Tống tiên sinh vẫn chưa lấy vợ?”
Vân Hương đỏ mặt nói: “Tiên sinh… Tiên sinh tuy không nhận cuộc hôn nhân kia, nhưng giờ náo loạn như thế, còn… còn ai dám muốn tiên sinh làm… làm con rể nha? Ai chẳng sợ quốc cữu gia.”
Tống Tử Kính đáng thương, chẳng trách tôi quấy rối như thế mà lông mày không thèm nhướng lên một cái, có lẽ đã sợ sinh vật phái nữ rồi.
Ngày hôm sau, khi thỉnh an Tạ phu nhân, tôi nói muốn tới lớp nghe giảng một chút. Tạ phu nhân ban đầu rất kinh ngạc khi biết tôi biết chữ, sau đó vui vẻ đến mức không để đâu cho hết.
Lớp học của Tạ gia được mở cho những bọn trẻ trong nhà và thân thích tới đọc sách, ngoại trừ tiểu thư “Quách Phù”, Tạ Linh Quyên, và hai anh em họ Mã bên ngoại, còn có mấy đứa trẻ sàn sàn tuổi nhau.
Bạn nhỏ Tạ Linh Quyên thấy tôi tới, đầu tiên rất ngạc nhiên, sau đó rất mất hứng, cuối cùng lại có chút sợ hãi. Đại khái là anh cả đã trách mắng con bé, cuối cùng cũng biết tôi là bề trên, không thể thô lỗ với tôi như trước đây. Đúng là trẻ nhỏ dễ dạy.
Hôm nay Tống Tử Kính mặc một bộ trường sam màu trắng, toát ra vẻ uyên bác, mộc mạc thanh nhã, không dính một hạt bụi. Tôi theo tập tục hành lễ với anh ta, anh ta nhẹ gật đầu, đặc biệt ung dung. Tôi ngồi xuống cuối cùng, phía sau một đám đầu nhỏ.
Hôm nay, trước tiên là kiểm tra bài học hôm qua, bạn nhỏ Tạ Linh Quyên tuy nhân phẩm có vấn đề nhưng ngược lại học hành rất tốt, có vẻ anh cả gia giáo rất nghiêm. Có mấy đứa trẻ lười biếng không làm bài, bây giờ không có bài để nộp.
Tống Tử Kính này, nếu dùng một từ đang lưu hành để miêu tả, chính là một nữ vương thụ. Nhìn có vẻ yếu đuối, nhưng biện pháp phạt người lại vừa nghiêm khắc vừa ác độc. Chỉ thấy anh ta nhàn nhạt nói một câu: “Ngày mai nộp bù đi.”
Mấy đứa trẻ kia thở phào nhẹ nhõm. Sau đó thầy giáo Tống lại bổ sung thêm một câu: “Tất cả các trò chép lại bài học hôm qua năm mươi lần, ngày mai nộp bài.”
Phía dưới tiếng kêu than vang trời, mấy đứa bé không nộp bài lập tức thành cái đích ọi người chỉ trích.
Hiểu chưa bọn nhóc, cái này gọi là tội liên đới, một trong những nét văn hóa tiêu biểu của xã hội phong kiến tăm tối. Thầy Tống đây cũng vì muốn tốt cho các em, sớm biết về một mặt vô nhân tính của xã hội này thôi.
Tôi giơ tay. Tống Tử Kính hỏi: “Chuyện gì vậy?”
Tôi nói: “Tiên sinh, tôi có phải nộp bài không?”
Gương mặt Tống Tử Kính cứng đờ, không được tự nhiên mà nói: “Tứ tiểu thư mới tới, không cần.”
Tôi cười thầm.
Bắt đầu giảng bài, bài giảng là chuyện cổ “Trương Hoài nằm băng”. Trương Hoài này tôi không biết, Vương Tường nằm trên băng câu cá chữa bệnh ẹ thì tôi đã nghe từ nhỏ, cũng không khác câu chuyện Tống Tử Kính kể là mấy.
Tống Tử Kính giảng bài ngoài dự tính của tôi, vô cùng sinh động, dùng câu từ dễ hiểu, thỉnh thoảng lại kể về xuất xứ của những câu thành ngữ, khiến bọn nhỏ nhớ kỹ. Tôi phải nói, anh ta là một người làm công tác giáo dục không tệ.
Kể câu chuyện xong, anh ta liền gọi mấy bạn nhỏ lên phát biểu cảm tưởng. Bọn nhỏ đều biết câu chuyện đó dạy con cái phải biết hiếu thuận với cha mẹ, chỉ có một thằng bé có suy nghĩ khác lạ: “Trương Hoài này thật ngu ngốc.”
Lịch sử chính là dùng những suy nghĩ khác lạ này để thúc đẩy sự tiến bộ nha. Tôi kích động nhìn qua, đó là một cậu bé mười một, mười hai tuổi mặc một bộ hoa phục đỏ thẫm, da trắng như tuyết, ngũ quan tinh xảo, mắt sáng như sao, môi đỏ như son, giống một con búp bê bằng sứ.
Trên mặt Tống Tử Kính có ý cười, hỏi: “Tiểu Lăng, trò nói xem vì sao?”
Tiểu Lăng phát âm lưu loát, nói: “Trương Hoài lấy thân mình muốn tan chảy băng, ai ngờ băng chưa tan chảy đã chết cóng, thứ có được không bù lại được thứ đã mất. Nếu con là Trương Hoài, con sẽ phá băng, vừa tiết kiệm thời gian vừa tiết kiệm sức lực.”
Tôi và Tống Tử Kính không hẹn mà cùng nhau gật đầu. Thầy Tống lại hỏi: “Còn có cái nhìn nào khác không?”
Tôi cũng không biết mình đã đắc tội Tạ Linh Quyên thế nào mà con nhỏ bỗng chỉ vào tôi, nói: “Tiểu cô cô có.”
Tống Tử Kính cũng biết thời biết thế, nói: “Tứ tiểu thư cũng nói vài câu đi.”
Tôi chưa hề có thời gian chuẩn bị, câu chuyện dễ hiểu này cũng không nói được ý nghĩa cao thâm nào. Trong nháy mắt, tôi như trở về lớp học thời đại học, bị giáo sư gọi lên đọc thuộc tất cả các huyệt đạo trên cơ thể người, trong đầu quạ bay vòng vòng, ngay cả tứ chi gọi là gì cũng quên mất.
Tạ Linh Quyên có ý muốn tôi xấu mặt, bật cười ra tiếng.
Nhờ có nụ cười đó mà tôi tỉnh hồn lại, mỉm cười với con bé: “Cảm tưởng thì không có, những tri thức liên quan thì có một ít. Cá chép là một trong những loại cá nước ngọt phổ biến nhất, trong “Thần nông thảo bản kinh” đã gọi cá chép là “vua của loài cá nước ngọt”. Từ góc độ y dược mà nói, cá chép có tình bình, vị ngọt, bổ tỳ vị, lợi tiểu, tiêu phù thũng, thông sữa, an thai. Đặc biệt, đầu cá chép có chứa nhiều mỡ phốt pho, mang lại lợi ích trong việc duy trì dinh dưỡng của não bộ, tăng cường trí nhớ. Vì vậy nói, người thông minh thích ăn đầu cá, điều này cũng không phải không có lý.”
Tống Tử Kính kinh ngạc nhìn tôi chằm chằm, giống như tôi là người ngoài hành tinh tới thăm Trái Đất. Mấy đứa trẻ đang ngồi đây cũng sợ ngây người, nhưng tôi tin đó là vì bọn chúng nghe không hiểu những gì tôi nói.
Tạ Linh Quyên nhỏ giọng lẩm bẩm: “Vậy muốn thông minh phải ăn đầu cá sao?”
Tôi gật đầu: “Đây cũng là một biện pháp.”
Vẻ mặt con bé phức tạp như có chuyện cần suy nghĩ, giống như khi Shin cậu bé bút chì biết rằng muốn có giọng nữ phải ăn ớt xanh vậy.
Tôi cười hỏi Tống Tử Kính: “Không biết tiên sinh có hài lòng với đáp án này không?”
Tống Tử Kính cũng không làm khó tôi, nói: “Tuy đáp không đúng câu hỏi nhưng đã giúp mọi người có thêm nhiều kiến thức.”
Tôi vui vẻ ngồi xuống.
Sau khi tan học, tôi theo bọn họ ra khỏi lớp, Tống Tử Kính gọi tôi lại.
“Tứ tiểu thư, tiểu thư nói “Thần nông thảo bản kinh”…”
Biết anh ta sẽ hỏi nên tôi đã nghĩ sẵn lời giải thích, lừa bịp nói: “Tôi chỉ nhớ sách thuốc có ghi vậy, cũng không nhớ rõ là quyển nào, tiện miệng mới nói thôi.”
Tống Tử Kính cười: “Thì ra là vậy. Chỉ là, thì ra tứ tiểu thư tinh thông y lý như vậy, tại hạ không biết tiểu thư học từ khi nào?”
Nụ cười của anh ta thật sự là vầng trắng ló sau đám mây, như ngọc tỏa sáng, khiến trái tim nhỏ của tôi đập loạn, không khỏi cười hì hì nói: “Học được trong mơ.”
Tống Tử Kính kinh ngạc.
Tôi cười, lại nói: “Tống tiên sinh, tôi thấy thân thể tiên sinh dường như có chút không tốt, có vẻ như khí huyết hư, mệt mỏi. Tôi dạy cho tiên sinh một phương pháp tăng huyết dưỡng vị, rất thích hợp cho những người tiêu hóa kém, gầy gò như tiên sinh. Mề gà đun hai giờ, thêm hai lượng đảng sâm, đun nửa canh giờ, thêm một con cá chép khoảng một cân và gia vị, đun nhỏ lửa thêm nửa canh giờ, sau đó uống canh cá đó. Những điều hôm nay nói phải áp dụng ngay mới được gọi là biết tiếp thu. Tiên sinh dùng thử trước đi.”
Tống Tử Kính tiếp tục ngẩn người. Tôi cười, vẫy vẫy tay với anh ta, xoay người nhảy chân sáo ra khỏi viện.
Còn chưa đi xa đã thấy một tiên nữ được bao phủ bởi một tầng ánh sáng vàng lóng lánh đi tới. Đó là chị gái Tạ Chiêu Kha coi thường Điêu Thuyền, vượt mặt Tây Thi của tôi.
Tạ Chiêu Kha nhìn thấy tôi thì rất ngạc nhiên, cô ấy tròn mắt nhìn tôi chằm chằm, đôi lông mày lá liễu khẽ nhíu lại cũng vô cùng đẹp.
Tôi giải thích với cô ấy: “Muội ở trong viện buồn chán, mẫu thân bảo muội tới chỗ Tống tiên sinh nghe giảng.”
Tạ Chiêu Kha à một tiếng: “Tống tiên sinh đi rồi sao?”
“Chưa, còn đang ở trong học đường thu dọn đồ đạc.”
Đang nói, Tống Tử Kính cũng đi ra, lễ phép chào một tiếng: “Tam tiểu thư.”
Ánh mắt Tạ Chiêu Kha lập tức phát sáng, long lanh ướt át, nếu tôi là đàn ông, tôi sẽ lập tức chết chìm trong sóng mắt đó. Chỉ thấy cô ấy e ấp xấu hổ, đuôi mắt khẽ cười, má như phấn đào, môi anh đào hơi mím lại, hoàn toàn là dáng vẻ lộc xuân ngượng ngùng nảy mầm.
“Tống tiên sinh... Gần đây trời lạnh, ta may cho tiên sinh một chiếc áo khoác… Ban đêm tiên sinh đọc sách nhớ choàng thêm.”
Ai ya, thì ra là như thế.
Tôi bừng tỉnh đại ngộ, lập tức không làm bóng đèn nữa, tìm một cái cớ chuồn trước.
Trở về Dưỡng Tâm Các, Vân Hương vội vàng chào đón hỏi tôi: “Thế… Thế nào rồi ạ? Tiểu thư, hôm nay Tống tiên sinh làm gì?”
Tôi thương hại xoa đầu Vân Hương: “Con gái ngoan, hiện nay tình thế nghiêm trọng, cạnh tranh gay cấn, mẹ sợ rằng con đã hy vọng vô ích rồi. Con ngoan ngoãn thu hồi tình cảm, tìm người khác đi, nhé. Nên nhớ, “Tề đại phi ngẫu”*.
* Tề đại phi ngẫu: ý nói địa vị thấp hơn, môn không đăng hộ không đối.
Vân Hương nửa hiểu nửa không: “Tiểu thư, có phải người lại ngốc rồi không? Tiểu thư đang nói Tống tiên sinh không tốt sao?”
Tôi lắc đầu bỏ đi.
Tạ Chiêu Kha thích Tống Tử Kính, chuyện này không thể nghi ngờ. Vậy Tống Tử Kính có thích Tạ Chiêu Kha không?
Mặc kệ anh ta có thích hay không, anh ta chưa có công danh, sẽ không có khả năng phát triển với Tạ Chiêu Kha. Tạ Chiêu Kha và Tống Tử Kính tài mạo xứng đôi, Tạ gia cũng không chê nghèo yêu tiền bạc, nhưng chưa chắc Tạ thái phó sẽ vì vậy mà đắc tội với quốc cữu gia.
Nói tới đây, tôi lại có cảm giác nguy cơ.
Vị đại tiên đó chỉ nói đến thời điểm thích hợp sẽ đưa tôi về, đây đúng là mấy lời vô dụng, như thế có nghĩa phải đợi đến bao giờ? Mười ngày, mười tháng, hay là mười năm? Nếu đợi tới khi trở thành cụ già rồi mới cho tôi trở về, vậy chênh lệch thời gian giữa hai bên phải điều tiết thế nào? Nếu thật sự phải chờ lâu như vậy, tôi ở bên này bị Tạ gia sắp xếp ột cuộc hôn nhân, trùm khăn voan tống khứ cho ai đó trước thì sao?
Dù tôi không hy vọng được gả cho người trong lòng, Trương Tử Viêt, nhưng cũng không thể lấy một gã xa lạ nha.
Nghĩ vậy, tôi bắt đầu để ý xung quanh, tìm cơ hội rời khỏi Tạ phủ. Cùng lắm thì xuất gia làm ni cô, dù sao tôi đã làm ni cô tám kiếp, tương đối quen biết với Phật tổ, sẽ được chiếu cố nhiều hơn.
Cứ đắn đo suy nghĩ như thế, lễ mừng năm mới đã sắp đến.