“Ta không cứu người ấy.” Đôi mắt hẹp dài của hồ ly cong lên như vành trăng, “Người mà ta cứu là chàng thiếu niên ngồi bên đống lửa uống rượu mạnh, đem lòng mơ ước vác kiếm phiêu bạt giang hồ vào một đêm đông của nhiều năm về trước.”
Chương 1.1
Edit: Sa
Năm đầu tiên đất nước thái bình, Thành Đô, ngoại ô.
“Khách quan, mì thịt dưa chua của ngài có rồi đây!” Tiểu nhị nhanh nhẹn đặt bát mì nóng hổi xuống trước mặt nàng, vắt cái khăn lên vai theo thói quen rồi nói với tiểu hòa thượng ngồi bên cạnh nàng, “Tiểu sư phụ, mì chay của đệ phải chờ thêm một lát hi hi.”
Ngửi bát mì thơm phức trước mặt, nàng hớn hở nói: “Ngửi mùi thôi là thấy ngon rồi, nghe nói ẩm thực của nước Thục rất ngon, ngay cả một bát mì bé xíu cũng không làm người ta thất vọng.” Nàng gắp mì lên thổi, ống tay áo trượt xống để lộ sợ dây đỏ buộc quanh cổ tay, chiếc chuông màu vàng nhỏ xíu được treo trên sợi dây treo trông càng nổi bật và đáng yêu bởi làn da trắng muốt, song bất kể động tác của nàng mạnh mẽ bao nhiêu, chiếc chuông vàng vẫn không hề phát ra tiếng động.
Tiếng sụp soạt vang lên, bát mì trôi xuống bụng, nàng thỏa mãn hít vào một hơi, giơ ngón tay cái lên với tiểu nhị.
“Khách quan thích thì tốt quá.” Được khen ngợi, tiểu nhị hết sức vui mừng, không dằn được lòng mà nhìn nàng thêm mấy lần. Đó là một cô bé rất xinh đẹp, khoảng mười bốn mười lăm tuổi, đôi mắt hạnh long lanh sáng như sao, cười lên tạo thành hai đường cong cong, cộng thêm hai má lúm lanh lợi nên khi nàng cười, không cần ăn gì cũng thấy ngọt. Cách ăn mặc của nàng cũng rất đẹp, áo đỏ quần đỏ trông vui tươi như bức tranh ngày tết, bên hông buộc một cái túi màu đen, trông không giống hà bao cũng chẳng giống túi thơm, miệng túi được một sợi dây bình thường cột chặt, chiếc túi căng phồng. Cô bé này chỗ nào cũng đẹp, chỉ có tóc tai là hơi lộn xộn, hai bím tóc được thắt bừa, một bím tóc buông rũ trước ngực. Bên cạnh nàng là tiểu hòa thượng tầm sáu bảy tuổi, mặc tăng y màu xám, cổ đeo tràng hạt, cái đầu trọc như phát sáng bên dưới ngọn đèn dầu, từ lúc vào khách điếm tới bây giờ, cậu vẫn luôn trưng bộ mặt “bị quỵt tiền”.
Hiếm khi thấy hòa thượng và cô nương tục gia cùng ngủ trọ tại khách điếm, tiểu nhị thắc mắc: “Khách quan không phải là người nơi đây phải không? Hình như tôi chưa từng gặp cô và vị tiểu sư phụ này.” Còn dưa dứt lời, ô cửa sổ gần nàng bỗng dưng bị bật tung, mấy bông tuyết cuốn mình trong gió rét nhân cơ hội lùa vào, tiểu nhị vội vã đóng kín cửa sổ lại, sợ nàng bị lạnh.
Một bông tuyết đậu trên chóp mũi nàng chợt tan ra, nàng quay đầu hỏi tiểu nhị: “Nước Thục khác với phương Bắc, rất hiếm khi có tuyết đúng không?”
“Cũng thường có tuyết lắm, nhưng đúng là rất hiếm khi lại rơi lớn như bây giờ.” Tiểu nhị chà xát hai bàn tay, “Cô không bị lạnh đó chứ?”
“Mới ăn bát mì xong, sao dễ bị lạnh thế được.” Nàng cười, “Quán trọ nhà ngươi đặt tên không hay lắm, đa số quán trọ đều có tên là “Duyệt Lai” hoặc “Thường An” chứ chẳng ai lại đặt tên là “Khách điếm Phong Tuyết” như quán trọ của các người, vốn dĩ không gió không tuyết thì cũng vô duyên vô cớ bị các ngươi gọi đến.”
Bên ngoài lại rít lên một trận gió, đèn lồng treo dưới mái hiên bay phấp phới, nương theo ánh đèn lúc mờ lúc tỏ, bốn chữ “Khách điếm Phong Tuyết” như bị lung lay theo. Đêm lạnh tuyết dày, khó tìm thấy dấu vết của con người, trong phạm vi hơn mười dặm quanh đây chỉ có nơi này là có ánh sáng, cho dù ai thấy cũng sẽ muốn đến đây để tránh gió tránh tuyết, ăn bát mì nóng.
“Khách quan vui tính quá.” Tiểu nhị cười to, “Tên của quán trọ là do chưởng quỹ đặt, có ý nghĩa là mưa thuận gió hòa, tuyết rơi là báo hiệu cho một năm bội thu.”
“Đúng vậy đúng vậy, đúng là ý đó.” Tuy vẫn luôn đứng trong quầy chuyên tâm gảy bàn tính nhưng tai chưởng quỹ mập ú rất thính, xen ngang, “Cô nương đến đúng lúc đó, sáng mai ngủ dậy, tuyết sẽ rơi rất dày, cô có thể làm người tuyết hoặc chơi ném tuyết, vui lắm!”
Nàng không lên tiếng, chuyên tâm ăn mì.
“Ta đói…” Rốt cuộc tiểu hòa thượng cũng mở miệng nói hai tiếng.
Đang gắp mì chuẩn bị cho vào miệng, nàng đặt đôi đũa xuống, hào phóng đẩy bát mì tới trước mặt cậu: “Ăn đi!”
Tiểu hòa thượng nhíu mày: “Người xuất gia không ăn thịt!”
“Vậy thì nhịn đói.” Nàng nhanh chóng kéo cái bát trở về, cố ý chậm rãi ăn từng miếng, từng miếng.
Tiểu hòa thượng dẩu môi xoay đầu đi, hồi lâu sau mới lấy can đảm hỏi nhỏ tiểu nhị: “Ờ thì… xin hỏi món chay của ta phải chờ bao lâu nữa?”
“Sắp rồi sắp rồi.” Tiểu nhị hét to về phía phòng bếp, “Làm mì chay nhanh lên! Tiểu sư phụ đói rồi!”
Lúc này trong quán mì ngoài nàng và tiểu hòa thượng còn có hai bàn khách nữa, một bàn ngồi đầy bốn thương nhân phong trần, thân thể khỏe mạnh, ngựa của họ đang được giữ ở chuồng ngựa đằng sau khách điếm chở tới mấy cái thùng gỗ lớn. Bàn còn lại chỉ có một vị khách, là một công tử nhã nhặn tuổi ngoài đôi mươi, mặt mũi thanh tú trắng trẻo, mái tóc đen được búi gọn gàng trên đỉnh đầu bằng một chiếc trâm bạch ngọc, mặc áo xám không mới không cũ, chiếc áo choàng cùng màu được đặt ở băng ghế bên cạnh, trên bàn thả một bầu rượu và một đĩa rau xào, tự rót rượu uống một mình.
Rốt cuộc mì chay cũng được dọn lên, tiểu hòa thượng vừa hạnh phúc cầm đũa lên thì bát mì đã không thấy tăm hơi.
Nàng bưng bát mì chay của cậu, không sợ nóng mà húp sụp soạt, sau đó thỏa mãn sờ bụng: “No quá.”
Bàn tay nắm đũa của tiểu hòa thượng run run, niệm mấy tiếng a di đà Phật rồi mới ấm ức nói: “Cô mua bát mới cho ta đi…”
“Không có tiền.” Nàng xòe tay, “Ai bảo hồi nãy dâng mì lên tận miệng mà cậu không ăn, bây giờ cậu chỉ có thể đi hóa duyên(1) thôi.”
“Không ăn cũng được. Phật viết, hết thảy đều không, có mì tức là không có mì, không có mì tức là có mì.” Mồm miệng của tiểu hòa thượng rất lanh lợi, cậu bỏ đũa xuống bàn, chắp tay niệm kinh.
(1) Hóa duyên: tăng ni, đạo sĩ đi xin bố thí, người bố thí sẽ có duyên lành với tiên phật.
Chưởng quỹ buồn cười, nói: “Ta nói cô nương này, cô đừng trêu vị tiểu sư phụ này nữa, trời lạnh lắm, không ăn thì không làm gì được đâu, nếu cô xót tiền thì để ta mời bát mì chay này vậy.” Ông ta gọi tiểu nhị: “Ê, bảo phòng bếp nấu thêm bát mì chay cho tiểu sư phụ.”
Nghe vậy, tiểu hòa thượng vội vàng đứng dậy chắp tay với chưởng quỹ: “A di đà Phật, chưởng quỹ ở hiền chắc chắn sẽ gặp được thiện quả.”
Nàng nhướn môi, chỉ cười chứ không nói.
Có vẻ như các thương nhân ăn uống rất thỏa thuê, tiếng trò chuyện rất to, vừa gặm xương vừa cụng hết ly này tới ly khác.
Công tử áo xám luôn an tĩnh đột nhiên ho dữ dội sau khi uống còn dư non nửa ly rượu, hắn dùng một tay che miệng, một tay lẳng lặng đấm nhẹ vào ngực nhưng cơn ho vẫn không thuyên giảm, ngược lại còn có phần dữ dội hơn.
Các thương nhân đã chuếnh choáng say, thấy vậy thì nói năng thô lỗ: “Đừng nói là mắc chứng ho lao đó chớ, bị bệnh thì mau về phòng đi!”
Tiểu hòa thượng bước lên phía trước nói với công tử áo xám: “Thí chủ bị bệnh ư?”
Công tử áo xám khoát tay với cậu, gương mặt trắng trẻo đỏ lựng vì ho, đang định nói gì đó thì cổ họng chợt nóng lên, phun ra ngụm máu lớn, màu máu rất sậm, gần như là màu đen.
Sắc mặt tiểu hòa thượng tái nhợt, vội vàng đỡ lấy cánh tay của hắn, lo lắng hỏi: “Thí chủ không khỏe ở đâu?”
Công tử áo xám lắc đầu, một tay vẫn ôm chặt lồng ngực phập phồng giống như có thứ gì đó đang chạy ở bên trong.
Thấy hắn quá đỗi khó chịu, tiểu hòa thượng vừa niệm a di đà Phật vừa vỗ lưng hắn: “Thí chủ chớ hoảng sợ, ở đây có vị…”
“Lắm Lời!” Nàng ngăn tiểu hòa thượng lại, “Chưa ăn cơm mà còn có sức tán dóc?”
Tiểu hòa thượng quay đầu nói: “Vị thí chủ này sắp chết rồi! Cô không cứu người mà còn có thời gian tán dóc?”
Còn chưa dứt lời, công tử áo xám đã gục xuống bàn, hôn mê bất tỉnh.
Các thương nhân say xỉn thấy màn này thì luôn miệng nói xui xẻo, đụng phải đứa mắc bệnh ho lao, bốn người lục tục đứng dậy, hùng hổ đi lên lầu, song còn chưa kịp bước lên cầu thang thì cả bốn người đàn ông to cao lực lưỡng thay nhau ngã xuống, nằm thành bốn đống vô tri vô giác dưới đất.
Thấy thế, tiểu hòa thượng hấp tấp chạy tới, bắt lấy cánh tay của một người trong số họ, vội nói: “Thí chủ, ông bị sao vậy? Các ông…” Lời còn chưa dứt, cậu vội rụt tay về như bị rắn cắn, khoảng trống giữa ngón tay cậu và cánh tay người thương nhân giăng chất lỏng sền sệt, bốn người nằm trên đất tựa như cây nến đang bị tan chảy, dần hòa tan vào nhau.
Tiểu hòa thượng há hốc miệng, chạy nhanh tới gần nàng: “Thế kia là sao? Họ bị sao vậy?”
Nàng nhún vai: “Chắc là say thôi, ha ha.”
“Cô còn cười?” Tiểu hòa thượng phẫn nộ nhìn nàng, “Cứu họ đi!”
Nàng lực bất tòng tâm nhìn lên trần nhà: “Hôm nay cậu mới quen ta à? Ta không cứu con người.”
“Cô…”
Tiểu hòa thượng sốt sắng giậm chân, thần sắc nàng bỗng chốc trở nên khó coi, nàng đứng dậy, nhíu mày, không nói gì liền ngã xuống đất bất tỉnh làm tiểu hòa thượng giật mình suýt hét toáng lên.
Thoáng chốc khách điếm trở nên hỗn loạn, công tử áo xám chỉ còn chút hơi sức nằm im trên bàn, bốn người đàn ông nằm dưới đất từ từ tan chảy, cách đó không xa còn có cô nương mặc quần áo màu đỏ nằm bất động, chỉ có duy nhất tiểu hòa thượng còn tỉnh táo là đang luống cuống đứng giữa đám người luôn miệng niệm a di đà Phật.
“Ơ, sao thế sao thế?” Chưởng quỹ ngừng gảy bàn tính, chầm chậm đi ra, thân hình mập ú lắc lư tiến về phía tiểu hòa thượng, thấy nàng nằm dưới đất, chưởng quỹ dè dặt giơ chân đá nhẹ người nàng, nhíu mày: “Cứng quá, không được.” Dứt lời lại đi về phía cầu thang, cũng đá vào bốn người đàn ông nằm dưới đất, sau đó nuốt nước bọt, gọi to vào bên trong: “Mấy đứa này được nè!”
Tiểu nhị và đầu bếp nhanh chóng chạy từ phòng bếp ra, mặt mày hớn hở.
“Cô nương này làm sao đây?” Tiểu nhị nhìn chưởng quỹ, “Đẹp quá.”
Đầu bếp cười khà khà, cười trêu: “Thằng nhãi ranh nhà đệ chỉ cần thấy đàn bà con gái là khen đẹp. Chờ lát nữa nó mềm ra thì cho đệ đó, ta và đại ca không giành với đệ đâu.”
“Đa tạ nhị ca.”
Tiểu hòa thượng há hốc mồm nhìn họ.
“Còn tiểu hòa thượng nữa!” Tiểu nhị chỉ vào cậu rồi lại nhìn sang bên kia, “Còn cả công tử kia nữa!”
“Trong bếp còn dư nửa bát canh, lát nữa cho tiểu hòa thượng uống là xong chuyện. Công tử kia thì thôi, mấy đứa mắc bệnh ho lao ăn tởm lắm, đem đi chôn cho rồi.” Đầu bếp xoa tay, “Đệ trông chừng hai đứa này nha, ta sang bên kia trước, để mềm quá mất ngon.”
Bên kia, chưởng quỹ mập ú thèm thuồng liếm môi, nói với đầu bếp: “Hai thằng mập là của ta, gầy thuộc về đệ.”
Tuy không quá vui lòng nhưng đầu bếp vẫn gật đầu.
Hai người ngồi xuống nhìn bốn người trước mắt, đôi mắt bắn ra tia sáng chỉ những ai đói bụng mới có.
Hai chiếc ống hút dài mềm thò ra khỏi miệng chưởng quỹ và đầu bếp đâm vào thân thể của hai thương nhân, họ hút vào, máu thịt của hai thương nhân biến mất, trên mặt đất chỉ còn lại hai bộ xương.
“Mỹ vị tột độ.” Chưởng quỹ ợ dài, cao hứng nghiêng đầu trao đổi ánh mắt thỏa mãn với đầu bếp.
Tiểu hòa thượng há hốc mồm, ngay cả a di đà Phật cũng không niệm nổi nữa.
“Không sao, không đau đâu.” Tiểu nhị sờ cái đầu trọc lóc của cậu, liếm môi nhìn chưởng quỹ và đầu bếp.
“Sao ngươi biết không đau?” Đằng sau hắn vang lên tiếng thắc mắc, “Người nằm dưới đất đâu phải là ngươi.”
Tiểu nhị quay phắt đầu lại, bụi trắng bỗng chốc từ đâu rơi xuống, trong mơ hồ, một bóng người màu đỏ cười khanh khách tiến về phía hắn.
Leng keng, leng keng!
Chiếc chuông vàng luôn im lặng bất kể động tác của nàng thì bây giờ bỗng phát ra tiếng kêu lanh lảnh.
Trong tiếng chuông, tiếng thét thê lương chói tai vang lên chỉ đúng một tiếng, thân thể tiểu nhị mềm nhũn, càng lúc càng khuỵu xuống thấp, cuối cùng biến thành con sên dài chưa tới nửa xích(2).
(2) 1 xích = 33,33 cm.
Nàng nhấc chân, khinh thường đạp xuống, con sên bị chia năm xẻ bảy, dịch bắn ra tung tóe.
Tiểu hòa thượng nhíu mày, nhắm chặt mắt theo bản năng, luôn miệng niệm a di đà Phật.
Phía bên kia, chưởng quỹ và đầu bếp không kịp lau miệng, thậm chí đến cả đầu cũng chỉ có thể ngoái lại một nửa, bọn hắn cứng đờ tại chỗ, nhìn nhau bằng ánh mắt nghi hoặc và sợ hãi.
Leng keng, leng keng!
Nàng chầm chậm đi tới cái bàn gần bọn hắn nhất, ngồi xuống, cầm lấy một chiếc đũa rồi xoay tới xoay lui giữa các ngón tay.
Chưởng quỹ ợ một hơi dài rồi mới quay hẳn đầu lại, đánh giá nha đầu trước mắt, lắp bắp: “Ngươi… ngươi là…”
Đầu bếp sợ hãi run lẩy bẩy, núp đằng sau chưởng quỷ, nói: “Đại ca… là nàng ta ư? Sao nàng ta lại tới đây?”
Chiếc đũa trong tay nàng tinh nghịch chuyển động, nàng cười: “Hai vị no chưa?”
“Ngươi… ngươi là Đào Yêu?” Chưởng quỹ tốn rất nhiều sức lực mới thốt ra được hai chữ cuối.
Nàng gật đầu: “Là ta.”
Chưởng quỹ và đầu bếp như bị sét đánh ngang ta, toàn thân tê dại. Có điều sợ hãi cực độ có khi sẽ dẫn đến giận dữ cực độ, chưởng quỹ đột nhiên đứng bật dậy, chỉ vào mặt nàng, nói: “Sao ngươi không ở yên dưới gốc đào nhà ngươi mà chạy tới đây làm gì?”
“Ta cũng đâu muốn xen vô, là do trời rét quá, mà ta lại đói nên mới ghé quán ngươi ăn bát mì thôi mà.” Nàng tiếp tục xoay đũa, “Bọn ta chỉ muốn ăn mì, các ngươi lại muốn ăn bọn ta, cái này thì không được.”
“Đại ca… Làm sao đây?” Đầu bếp sợ xanh cả mặt.
Chưởng quỹ cắn răng: “Đằng nào cũng chết, liều mạng với nó thôi!”
Còn chưa dứt lời, hai thân thể đã nhanh chóng uốn éo, sau đó hai con sên khổng lồ quấn vào xong, cuối cùng hóa thành một con sên hai đầu khổng lồ cao tầm ba thước dựa vào trần nhà quan sát nàng, một cái đầu hung hăng nói: “Huynh đệ bọn ta tu hành vất vả, hôm nay nếu ngươi chịu buông tha, bọn ta sẽ rút về sơn dã, không đặt chân tới nhân giới nữa, bằng không, bọn ta sẽ cho ngươi nếm mùi!”
Nghe vậy, tiểu hòa thượng vội ngẩng đầu nói: “Sên yêu, có gì xuống đây hẵng nói, các ngươi ăn thịt người là không đúng, nếu chịu hối cải…”
“Câm miệng.” Nàng búng tay, chiếc đũa phóng tới cái đầu trọc lóc của tiểu hòa thượng.
“Đào Yêu!” Tiểu hòa thượng vừa sờ đầu vừa chạy tới gần nàng, khẩn cầu: “Họ chịu rời đi rồi thì tha đi, cô đã giết một người rồi, trời cao có đức hiếu sinh, chi bằng cô…”
“Phóng sinh là chuyện của ông trời, ta không phải trời.” Nàng liếc tiểu hòa thượng một cái rồi ngẩng đầu nói với con sên: “Uổng cho các ngươi tu hành nhiều năm, ngay cả cầu xin tha thứ cũng không biết, cho nên ta không vui, vì vậy ta sẽ không bỏ qua cho các ngươi.”
Con sên sửng sốt, cả giận: “Vậy thử xem ngươi không bỏ qua như thế nào!”
Một luồng gió tanh nổi lên, con sên nhớp nhúa bổ từ trần nhà xuống, cái bóng khổng lồ bao trùm tiểu hòa thượng.
Nàng vân vê một viên thuốc nho nhỏ ở đầu ngón tay, nhưng chưa kịp ném đi thì một bóng hình màu xanh bỗng từ đâu xuất hiện, dùng tốc độ đánh không kịp bưng tai quấn lấy con sên, tiếng động ầm ĩ, cửa khách điếm mở tung, bóng hình màu xanh quấn con mồi lao ra cửa.
Khách điếm yên tĩnh trở lại, tất cả đèn dầu đều đã bị tắt, đột nhiên bên ngoài có ánh sáng lập lòe, trên cửa sổ các ngôi nhà đang khép chặt cửa hiện lên cái bóng khổng lồ, ẩn hiện một vật há to miệng chầm chậm nuốt con sên đang không ngừng giãy giụa vào bụng.
Sau đó, tuyết lại như cũ, không còn bất thường nữa.
“Đào Yêu, ta lại giúp cô một việc, cô phải nhớ kỹ đó.” Ngoài cửa sổ, tiếng nói của nam tử truyền vào nhưng không thấy bóng dáng đâu.
Nàng lấy que diêm thắp sáng ngọn đèn trên bàn, rất bất mãn nói với không khí: “Tưởng bở, ta có cần huynh giúp đâu!”
“Hai người lại tạo sát nghiệp! A di đà Phật, a di đà Phật!” Tiểu hòa thượng nhíu chặt mày, giận nhưng không dám nói gì, bèn niệm kinh.
“Xê ra xê ra, qua một bên mà niệm.” Nàng đẩy tiểu hòa thượng qua một bên, cầm que diêm đi tới gần cái bàn phía trước, cười nói với vị công tử áo xám đã tỉnh lại sau khi bị “ngất xỉu”: “Công tử ngồi cho chắc, để ta châm đèn giúp công tử.”
“Cảm ơn.” Công tử áo xám nhẹ nhàng nói, sau đó bỗng ho một trận.
Bấc đèn rực lên ngọn lửa, nàng thổi tắt que diêm, ngồi xuống ghế đối diện, chống cằm nhìn thanh niên tuấn tú: “Ngất là giả, bệnh là thật.”
“Phải. Nếu không gặp lương y, chỉ e tháng ngày không còn nhiều.” Hắn cầm bầu rượu, “Cuối cùng cũng được gặp cô nương, kính cô nương một chén, bệnh tình của tại hạ phải làm phiền cô nương rồi.”
Nàng cười: “Sao ngươi chắc chắn người mà ngươi cần tìm là ta? Lỡ con sên nhận nhầm người, gọi sai tên thì sao?”
“Quỷ y Đào Yêu, thiện ác như mê. Chuông vàng lướt qua, mảnh giáp không còn.” Hắn đẩy một chén rượu tới trước mặt nàng, tầm mắt rơi vào chiếc chuông vàng được đeo trên cổ tay nàng, “Thiết nghĩ không có nhiều yêu quái muốn nghe thấy tiếng chuông vàng này. Điều duy nhất mà ta không chắc chắn là cô có đến gặp ta hay không, nhưng cô đã đến, ta rất may mắn.”
Nàng nhún vai: “Đừng vui mừng quá sớm, ta tới gặp ngươi là vì cảm thấy thân phận của ngươi rất thú vị, còn về phần có muốn chữa trị cho ngươi hay không thì…”
“Ta biết, có muốn chữa trị cho ta hay không thì phải xem tâm trạng của cô nương. Hắn tiếp lời, “Tâm trạng hiện giờ của cô nương thế nào?”
“Bát mì bị bỏ mê hồn nhuyễn cốt ban nãy rất hợp với khẩu vị của ta, hiện tại ta không đói bụng, cho nên tâm trạng không tệ.” Nàng cười, quan sát hắn, “Ngươi đứng dậy xoay mấy vòng cho ta xem.”
Hắn khẽ nhíu mày nhưng ngại từ chối, bèn đứng dậy nhích ra mép bàn, đứng tại chỗ xoay hai vòng.
Tiểu hòa thượng đứng ở bên cạnh “a” lên một tiếng. Dưới ngọn đèn dầu, bóng của công tử áo xám không chỉ một mà là một đống, cảm giác như có vô số cái bóng chồng lên nhau, vô số cánh tay vươn ra, giương nanh múa vuốt.
“Chậc chậc, oán khí nặng nề.” Nàng bịt mũi, chê bai: “Ngươi làm gì mà mời gọi nhiều thứ thế, ta thấy ít nhất cũng tích oán khí của tận hơn vạn người.”
Công tử áo xám ngồi xuống: “Ta ăn thịt họ.”
Nàng lườm hắn: “Cơ thể khiếm khuyết của ngươi không chịu nổi nhiều “người” thế đâu.”
“Ta cũng tự thấy cơ thể đã tới điểm cực hạn… Vì vậy đành nhờ cậy cô nương.” Hắn đang nói, đột nhiên biến sắc, phun ra ngụm máu đen, lảo đảo ngã về sau, thân thể con người biến mất, một con hồ ly lăn xuống đất, ngất xỉu.
Đó là con hồ ly có màu lông rất hiếm gặp, dọc theo cột sống chia làm hai bên, nửa trắng nửa đen.
“A di đà Phật, là hồ ly kìa.” Tiểu hòa thượng vội vàng ngồi xuống ôm cơ thể lạnh lẽo của hồ ly vào lòng, “Ôi chao, nó không có đuôi! Đào Yêu, cô mau cứu nó đi!”
Hồ ly nằm trong lòng tiểu hòa thượng thở thoi thóp, toàn thân toát ra vầng sáng mỏng, chỉ nghe rõ một câu:
Cô mau cứu nó đi!Xem thêm...
Chương 1.2
Edit: Sa
“Vậy ngươi cứu nó đi, ha ha ha!” Thiết Đầu liếc cậu, chỉ là một thằng nhóc mười hai tuổi, đến cả cây thương còn không cầm nổi, chưa giết được một ai, thậm chí còn chưa xông pha chiến trường thực sự, vậy mà lại ở đây giả làm Bồ Tát, muốn hắn thả con hồ ly này.
Thiết Đầu là lão đại của quân trướng, bên dưới có mười mấy tiểu binh, ai cũng phục tùng hắn, nguyên nhân chỉ có một, Thiết Đầu lớn tuổi nhất, sức lực cũng mạnh nhất, không nghe lời là bị đánh. Nhưng tên tiểu quỷ này lại dám phá vỡ quy tắc. Cậu chỉ mới mười hai tuổi, là binh lính nhỏ nhất ở đây, nhưng cậu không nghe lời. Thiết Đầu thích bắt chim bắt thú, hắn làm một bộ cung tên, con chim nào bị hắn chấm trúng thì không tài nào thoát được; hắn am hiểu các loại bẫy để bẫy thú, mỗi lần vào rừng, chưa bao giờ trở về tay không. Con chim con thú rơi vào tay hắn đều biến thành những miếng thịt trên đống lửa, nếu tâm trạng tốt thì hắn sẽ chia cho các tiểu binh đang thèm thuồng ở bên cạnh, nhưng điều kiện là các tiểu binh phải giả làm thành khỉ hoặc bất cứ con vật nào mà hắn cảm thấy buồn cười cho hắn xem, hắn vui thì sẽ thưởng cho miếng thịt. Gần đây tiết trời buốt giá, quân lương thiếu hụt, nơi đóng quân là chỗ khỉ ho cò gáy dẫu có tiền cũng chẳng mua được gì, được ăn thịt thì cho dù giả làm khỉ cũng không vấn đề. Nhưng thằng tiểu quỷ này chưa bao giờ giả làm khỉ, toàn lấy bánh bột ngô cứng quèo ngâm vào nước cho mềm rồi ăn.
Đó là một trong những nguyên nhân Thiết Đầu không thích cậu, một nguyên nhân khác là xuất thân của tên tiểu quỷ. Cậu khác với những tiểu binh ở đây, phụ thân cậu làm trong quân đội, là con cái nhà tướng, còn nhỏ tuổi mà đã tòng quân, nghe nói đó là ý của “cấp trên”, sự thật thế nào thì cấp bậc của Thiết Đầu không thể nào biết được, chỉ biết “cấp trên” có lệnh cậu không cần phải ra chiến đấu, chỉ cần giữ lại làm chuyện vặt ở hậu phương mà thôi.
Thiết Đầu ghen tị với cậu. Trừ không cần ra chiến trường, cậu không có đặc quyền gì nữa, vì vậy Thiết Đầu chẳng chút kiêng dè, thường ngày toàn kiếm chuyện để chỉnh cậu: người khác chỉ cần nấu hai thùng nước thì cậu nấu bốn thùng; chuồng ngựa đã dọn rửa sạch sẽ, Thiết Đầu vẫn bảo cậu rửa thêm lần nữa; trong quân trướng, đệm giường của cậu là cái mỏng nhất, ban đêm thường xuyên giật mình tỉnh giấc vì lạnh; họ có nhiệm vụ chôn xác các binh sĩ đã chết khi được chuyển từ chiến trường về, hai quân giao chiến, máu nhuộm chiến trường, rất nhiều người đi và không bao giờ trở về, nằm xuống đất, nhiều người chết còn chẳng được toàn thây, Thiết Đầu biết cậu thiếu trải nghiệm nên luôn phân cho cậu xử lý các cái xác thảm thiết nhất, Thiết Đầu muốn lấy nỗi sợ của cậu ra để làm trò cười.
Với quân lệnh, cậu không cãi lời Thiết Đầu, nhiều lần một mình đẩy xe xác chết không nguyên vẹn bị thối rữa vào rừng để tìm chỗ chôn, lần nào tay cậu cũng run lẩy bẩy nhưng các đồng liêu đều được mai táng thỏa đáng. Buổi tối, Thiết Đầu cố ý kể chuyện ma ở trong quân trướng, cậu vờ như không nghe nhưng đến nửa đêm lại không dám đi tiểu, cố nhịn tới rạng sáng. Dẫu sao, cậu cũng chỉ mới mười hai tuổi.
Cậu chưa bao giờ xung đột trực diện với Thiết Đầu, nhưng lần này thì khác, vì một con cáo.
Nó bị Thiết Đầu mang về sau chuyến vào rừng hôm qua, bị nhốt trong lồng sắt, trên cổ bị buộc sợi dây. Mọi người chưa từng thấy con cáo nào có màu lông như nó. Trắng, hồng, đen, họ đều thấy hết rồi, nhưng chưa từng thấy lông chia ra hai màu đen trắng, từ chóp mũi cho đến đỉnh đuôi tạo thành ranh giới rõ rệt, ánh mắt nó cũng rất kỳ lạ, đôi mắt màu xám tựa như màn sương dày lộ ra ánh sáng nhạt. Có người đùa chắc là có họa sĩ nào đó lười, vốn dĩ muốn vẽ con cáo màu đen nhưng vẽ được một nửa thì lười vẽ tiếp.
Nó co rúc trong lồng sắt chật hẹp, không có bất kỳ phản ứng nào với sự trêu chọc từ bên ngoài, thỉnh thoảng vẫy cái đuôi xù.
Lần này, Thiết Đầu không có ý định làm thịt nó, hắn nói hiếm khi bắt được cáo, tuy màu lông kỳ dị nhưng lại mượt mà, hơn nữa đuôi rất đẹp, cho nên muốn dâng cho phu nhân, trước kia hắn từng nghe thị nữ của phu nhân nói phu nhân muốn có cái khăn choàng đuôi cáo.
Phu nhân là người vợ thứ ba của Vương gia, đàn hay múa đẹp, Vương gia rất cưng chiều nàng, ngay cả đi đánh giặc cũng dẫn nàng theo, nếu lấy lòng phu nhân thành công, lo gì không được thăng chức.
Đám nhãi ranh tham ăn nói nếu chỉ dâng đuôi thôi thì sao bây giờ không giết nó để nướng lên ăn, chừa lại cái đuôi dâng cho phu nhân là được. Thiết Đầu phản đối, bảo phải dâng lên khi con cáo còn sống, hắn muốn chặt đuôi cáo trước mặt phu nhân để bày tỏ lòng thành.
Họ thảo luận vô cùng sôi nổi, con cáo mở to đôi mắt màu xám, nhìn bọn người bàn luận về số phận của nó qua song sắt.
“Không có khăn choàng cổ, phu nhân cũng không lạnh chết đâu.” Trong góc, có người nói vậy.
Tiếng thảo luận dừng lại, Thiết Đầu dạt đám đông ra, nhìn tiểu quỷ lau mũ giáp ở trong góc: “Ngươi nói lại lần nữa xem?”
“Thả nó ra đi, tội nghiệp nó lắm.” Cậu tiếp tục lau mũ giáp.
Một ly nước lạnh hất tới trước mặt cậu, Thiết Đầu ném cái ly đi, dữ tợn nhìn nó chằm chằm: “Ngươi nói lại lần nữa xem!”
Cái ly vỡ tan tành, cơ thể con cáo thoáng run lên.
Cậu lấy tay áo lau mặt, nói: “Thả nó ra đi.”
Thiết Đầu siết chặt nắm đấm, ai cũng nghĩ tiểu quỷ ăn nói lung tung sẽ gặp phải tai ương nhưng cuối cùng Thiết Đầu buông nắm đấm ra, cười xấu xa: “Vậy ngươi cứu nó đi, ha ha ha.”
Nghe vậy, cậu bỏ mũ giáp xuống, đứng dậy đi về phía lồng sắt. Một cánh tay tráng kiện I ngang trước mặt cậu, Thiết Đầu cười lạnh lẽo: “Ngươi tưởng đi tới mở lồng ra là được?”
Cậu nhìn Thiết Đầu: “Không thì sao?”
Thiết Đầu tức điên, rống lên: “Đánh thắng ta, con cáo thuộc về ngươi!”
Mọi người phì cười, cuộc đấu này chẳng có gì gay cấn, Thiết Đầu tùy tiện đấm một quyền là cũng có thể biến thằng nhóc mảnh khảnh này thành đống thịt vụn.
“Được, ta đánh.” Cậu đứng lại, nhìn Thiết Đầu, “Nhưng chúng ta không đánh ở đây.”
***
Mỏm đá giống như chiếc răng nanh của thú dữ, bên dưới là vực sâu không thấy đáy, từn cơn gió lạnh giá thổi qua phát ra tiếng vù vù ghê rợn.
Cậu cầm cây gậy nhỏ vẽ một đường ở nơi cách mép mỏm đá chưa tới ba thước, sau đó ném cây gậy đi, cậu đứng ở đường vạch, nói với Thiết Đầu: “Đánh ở đây, rơi xuống hoặc ra khỏi vạch là thua.”
Mọi người đứng vây xung quanh Thiết Đầu ở bên ngoài vạch ngơ ngác nhìn nhau, thằng nhóc này không muốn sống nữa à?
Lồng chứa con cáo coi như phần thưởng được đặt ở tảng đá to bên cạnh, con cáo mở to mắt, nhìn chằm chằm thiếu niên đứng cô độc trong gió rét.
Thiết Đầu nhíu mày, miệng nói được nhưng chân lại không nhúc nhích. Họ gọi nơi đây là vực quan tài vì cái vực này quá sâu, ngã xuống chắc chắn sẽ chết.
“Còn nữa,” Cậu lấy một miếng vải từ trong ngực áo ra, bịt kín mắt mình: “Chúng ta bịt mắt đánh.”
Thiết Đầu sửng sốt, bật thốt: “Thằng thỏ chết tiệt kia, ngươi điên rồi hả?”
“Ngươi đánh hay không đánh?” Cậu làm nóng tay chân, “Không đánh cũng là nhận thua.”
“Đại ca, huynh cân nhắc cẩn thận, ngã xuống đó không phải trò đùa đâu.” Có người nói nhỏ với Thiết Đầu.
“Nhưng nếu đại ca không đánh thì chẳng phải là thừa nhận thua tiểu quỷ ư? Bị đồn ra ngoài sẽ bị chê cười đó?” Cũng có người nói như vậy.
Thiết Đầu giậm chân, nói: “Được! Ông đánh với ngươi! Ta đường đường là Thiết Đầu đại gia há chịu thua tiểu quỷ ngươi!”
“Hay lắm! Đại ca có khí phách!”
“Cho thằng nhãi ranh đó một trận nhừ đòn đi!”
Người xung quanh sôi sục.
Thiết Đầu bước tới trước mặt cậu, cắn răng cầm lấy một miếng vải rồi bịt kín mắt lại.
Một lớn một bé, hai vóc dáng cùng thể lực cách xa nhau đứng ở nơi nguy hiểm tung ra quyền cước. Mỗi quyền Thiết Đầu đánh ra đều hung mãnh, hắn không nghĩ tới điều gì ngoài chiến thắng. Nhưng hôm nay tiểu quỷ hoàn toàn khác với thường ngày, bất kể hắn đánh ra sao cũng không thể chạm vào người cậu, mỗi lần hắn men theo hơi thở của cậu để ra đòn thì đều chỉ chạm vào khoảng không.
Người đứng xem cuộc chiến mới biết thằng nhãi bình thường ít nói đó lại có thân thủ cực kỳ nhanh nhẹn, cậu không khỏe bằng Thiết Đầu nhưng có sự linh hoạt mà Thiết Đầu không có, tránh phải né trái, đánh trả đúng lúc, chẳng bao lâu, Thiết Đầu đã bị cậu đá trúng mấy cái.
Trong lúc mọi người lớn tiếng cổ vũ cho Thiết Đầu, cậu đột nhiên nhảy lên rất cao, đá một cú vào ngực Thiết Đầu, tuy sức lực không quá lớn nhưng cũng đủ để kẻ vạm vỡ ấy lùi về sau mấy bước. Chân phải của hắn bị bước hụt, cơ thể lảo đảo, ngã về phía sau.
“Đại ca!” Mọi người sợ hãi kêu lên.
Một bàn tay bỗng túm lấy tay Thiết Đầu kéo mạnh lại, giúp Thiết Đầu đứng vững. Thiết Đầu giật miếng vải ra, quay đầu nhìn, người đổ mồ hôi lạnh.
Cậu vẫn giữ nguyên tư thế, nói với Thiết Đầu: “Ngươi thua rồi.”
Thiết Đầu cuống quýt bước vào trong, chân mềm nhũn, suýt quỳ xuống đất.
Cậu thở hổn hển, tháo miếng vải xuống, quay đầu nhìn mọi người đang há hốc mồm, không nói gì mà đi tới chỗ lồng sắt.
Mấy người kia chạy tới đỡ lấy Thiết Đầu: “Đại ca có sao không?”
Thiết Đầu lấy lại tinh thần, giận dữ hét lên với đám người: “Ta làm sao mà có chuyện gì được! Cút ngay!”
“Nhưng con cáo…” Họ nhìn bóng dáng từ phía sau của tên tiểu quỷ.
Thiết Đầu cắn răng, căm hận nói: “Coi như ông thưởng cho nó! Đi thôi!”
Cả đám ủ rũ rời đi, giữa chừng nghe Thiết Đầu quát tháo: “Không ai được nói chuyện hôm nay ra bên ngoài! Nếu phát hiện ra ai nói, ông sẽ bẻ đầu nó!”
Cậu nhìn sang đám người, thở phào nhẹ nhõm, cầm lồng sắt lê bước đi vào sâu trong rừng.
Con cáo nằm trong cái lồng lắc lư, ngẩng đầu tỉ mỉ quan sát gương mặt ướt đẫm mồ hôi của thiếu niên.
***
Con cáo dè dặt chui ra khỏi lồng, ngơ ngác nhìn cậu ở cách đó không xa, đôi mắt màu xám sợ hãi nhìn cậu, một chiếc lá khô khẽ khàng rơi xuống rồi đậu trên mũi nó, nó tò mò nhìn lá cây khiến mắt như mắt gà.
Cậu cười khẽ, nói: “Đi đi, đừng tới đây nữa, nếu lại bị bắt thì ta không cứu mi được nữa đâu.”
Con cáo nghiêng đầu, giơ vuốt cào lá cây xuống, xoay người chạy vài bước rồi dừng lại, ngoảnh đầu nhìn.
Cậu vẫy tay với nó: “Đi đi!”
Con cáo mở to mắt, nhanh như chớp chạy vào rừng sâu.
Cậu thở phào, hoạt động cho giãn gân cốt một chút rồi quay đầu đi về phía doanh trại.
Cậu cứ tưởng bắt đầu từ hôm đó, cậu sẽ khó sống ở doanh trại, dẫu rằng cuộc sống trước kia cũng chẳng dễ dàng gì, nhưng bất ngờ là Thiết Đầu không làm gì cậu, không hề có những màn trả đũa tàn bạo hơn cả trước kia, hắn vẫn như trước, vẫn ghét cậu ra mặt, vẫn bắt cậu nấu nước, đốn củi, cho ngựa ăn, dọn chuồng ngựa. Chuyện hôm đó như chưa từng xảy ra, Thiết Đầu không nhắc tới, cũng không cho bất cứ ai đề cập. Có lẽ là vì cảm thấy mất mặt, đường đường là Thiết Đầu mà lại đánh thua một thằng nhãi ranh miệng còn hôi sữa, cuối cùng còn nhờ thằng nhãi kéo lại mới không bị rơi xuống vực. Cũng bắt đầu từ hôm đó, phàm là những người xem cuộc tỉ thí đều không làm khó hắn, có vài người thấy cậu không có thời gian ăn cơm còn chừa cho cậu nửa cái bánh bột ngô. Tuy ra sa trường thường xuyên chứng kiến cái chết nhưng đối với người không sợ chết, họ vẫn phần nào nể phục.
Không bao lâu sau, Thiết Đầu được điều lên quân tiên phong. Trước khi đi, Thiết Đầu ở trong doanh địa căng cung tên bắn chim, nhưng hôm nay là ngày xui của hắn, không thu hoạch được gì. Cậu xách thùng nước đi ngang qua, Thiết Đầu gọi cậu lại.
“Ngươi biết tại sao ta ghét ngươi không?” Thiết đầu hỏi.
Cậu đứng đối diện Thiết Đầu, đặt thùng nước xuống, lắc đầu.
Thiết Đầu nhìn trời: “Vì sinh mệnh của bọn ta hệt như những con chim kia, nhưng ngươi thì khác.”
Cậu chợt cười, nụ cười già dặn không hợp với lứa tuổi: “Cùng là thịt cá, chỉ khác cái thớt mà thôi.”
Người thô lỗ như Thiết Đầu tựa hồ không hiểu cậu nói gì, đi tới trước mặt cậu, lạnh lùng nhìn thiếu niên thấp hơn mình một cái đầu: “Chờ ta về, chúng ta đánh lại một trận. Lần trước ngươi thắng ta chẳng qua là trò khôn lỏi.”
Cậu cười, xách thùng nước lên: “Sau này còn gặp lại.”
Sau này còn gặp lại… Ở chiến trường, sau này còn gặp lại là mơ tưởng xa vời.
Rất nhanh sau đó, cậu gặp lại Thiết Đầu. Người từng bắt nạt cậu vô số lần nằm cứng đờ trên xe đẩy cùng mười mấy thi thể khác. Thiết Đầu đỡ hơn những người kia một chút, ít nhất tay chân vẫn còn đầy đủ, chẳng qua trên người chi chít vết đao và vết tên, nhiều không đếm xuể. Ắt hẳn Thiết Đầu đã chống cự hết sức mình, đến chết, tay phải của hắn vẫn còn giữ tư thế cầm đao.
Người mới tới uể oải nói bằng giọng hiển nhiên: “Ngươi chịu trách nhiệm mấy người này.”
“Được.” Cậu gật đầu.
Cậu không nhớ rõ đây là lần thứ bao nhiêu mình chôn thi thể của đồng liêu bởi vì mỗi vùng đất trống mà cậu tìm được đều nhanh chóng hết chỗ.
Lần này có tổng cộng năm xe thi thể, những người được phân công làm cùng cậu đã kiếm cớ đau bụng để bỏ chạy hết, chỉ còn lại mình cậu cô độc dưới tuyết. Hôm nay rất lạnh.
Đào hố xong đã là ban đêm, trời tối đen như mực, cậu cột cây đuốc vào nơi khuất gió, mượn ánh lửa leo lét khiêng từng thi thể bỏ vào hố. Người không có linh hồn như nhẹ đi rất nhiều, cậu khiêng lên mà không thấy quá mệt.
Thiết Đầu là người cuối cùng được bỏ vào. Cậu đứng bên cạnh nhìn hắn, nhìn vết máu loang lổ trên mặt hắn, nói: “Ở nhà, cha ta thường để ta bịt mắt đánh nhau với gia đinh trong phủ, cha ta nói thể trạng của ta kém, đấu sức mạnh sẽ thua, chỉ có cách dựa vào sự nhanh nhẹn để giành chiến thắng. Vì vậy ngươi nói không sai, ta dựa vào sự khôn lỏi mới thắng được ngươi, nếu chúng ta đánh lại lần nữa, chắc chắn ta sẽ thua ngươi. Tuy chúng ta không thể đánh với nhau lần nữa nhưng ta và ngươi hãy coi như là đã đánh rồi nhé.”
Dứt lời, cậu dùng một tấm vải trắng đắp lên mặt Thiết Đầu, leo ra khỏi hố, cầm xẻng chầm chậm xúc đất lấp hố. Bùn đất rơi xuống phát ra tiếng loạt soạt, càng về khuya, âm thanh càng rõ.
Bỗng nhiên, trong bụi cây nhảy ra một thứ nho nhỏ, nhảy lên tảng đá gần cái hố, ngồi chồm hổm, nghiêng đầu nhìn cậu làm việc.
“Lại là mi?” Cậu dừng xúc đất, lau mồ hôi trán, nhìn con cáo nửa trắng nửa đen, “Đã bảo mi đi xa khỏi đây rồi mà?”
Tất nhiên con cáo không trả lời cậu, nó tò mò rướn cổ lên, nhìn vào hố.
Cậu bỗng thấy hơi mệt, cắm cái xẻng vào xuống đất, ngồi xuống, cũng nhìn vào hố: “Họ chết cả rồi, trước đó không lâu họ còn rất khỏe mạnh. Từ lúc gia nhập cuộc chiến, họ cũng giống như mi khi bị giam trong lồng, đến cả sinh mạng của mình cũng không thuộc về mình.”
Con cáo chớp mắt, nhìn cái hố rồi lại nhìn cậu.
“Đến khi chết, Thiết Đầu cũng không biết nguyên nhân thực sự ta đến đây. Không ai biết cả.” Cậu cười với con cáo, “Phụ thân ta nuôi hơn một trăm dũng sĩ, vì vậy người trong quân đội nghi ngờ phụ thân ta có lòng bất chính, muốn triệu kiến ông. Phụ thân ta lo lắng một đi sẽ không trở về. Ta nói với phụ thân, chỉ cần đưa ta vào tay hắn, có ta làm con tin, hắn sẽ an lòng. Quả nhiên, hắn đưa ta vào trong quân, cùng đi theo hắn nam chinh bắc phạt, nhưng hắn không để ta ra chiến trường.”
Con cáo ngồi chồm hổm ở đó, cái đuôi to nhẹ nhàng vung vẩy.
“Thiết Đầu nói mạng của ta không giống họ,” Cậu ngoảnh đầu nhìn về phía quân doanh, “Ta và hắn chẳng qua là những con cá nằm trên cái thớt khác nhau mà thôi.”
Nói xong, cậu cười trào phúng, đứng dậy cầm lấy cây xẻng, tự nhủ: “Mình điên rồi nên mới nói những điều này với một con cáo.”
Con cáo giơ vuốt gãi tai.
Cậu lắc đầu, vùi đầu tiếp tục lấp hố, cái hố dần đầy đất, dự định phải hơn nửa đêm mới lấp xong, dù chưa ăn cơm nhưng cậu không thấy đói, nhưng cái dạ dày trống rỗng nhói đau, luồng không khí buốt giá xâm nhập cơ thể theo mỗi nhịp hít thở, cảm giác càng khó chịu.
Hết xẻng này đến xẻng khác, bùn đất rơi xuống cái hố theo nhịp xúc đều đặn của cậu.
Loạt soạt, loạt soạt, trong tiếng loạt soạt đều đặn, cậu bỗng nhiên nghe thấy âm thanh bị lệch nhịp. Cậu ngừng lại, quay đầu, không biết từ bao giờ con cáo đã đứng bên hố, dùng chân sau của mình lấp đất vào hố.
Cậu ngẩn người, không lẽ động vật cũng có linh tính như mọi người vẫn nói? Nghĩ ngợi chốc lát, cậu lắc đầu bật cười, nói với con cáo: “Được rồi được rồi, đôi chân nhỏ xíu của mi có lấp tới sáng cũng chưa xong, để mình ta làm là được.”
Con cáo mặc kệ cậu, vẫn lấp đất vào hố.
Thời gian hoàn thành công việc sớm hơn dự kiến một chút, cậu mệt lả ngồi bệt dưới đất, con cáo cũng mệt lả thở hồng hộc.
“Cảm ơn nhé.” Cậu nhìn con cáo.
Con cáo liếc cậu một cái, xoay người chạy vào rừng.
Cậu đẩy chiếc xe đẩy trống trơn, bước trên đường núi gập ghềnh về doanh trại trong cơn gió tuyết đang to dần.
Nhờ có con cáo, tối nay cũng không tệ lắm, cậu nghĩ.Xem thêm...
Chương 1.3
Edit: Sa
Cậu không rõ bao lâu thì nhổ trại nhưng chẳng biết vì sao cậu lại hy vọng có thể ở nơi này lâu một chút.
Người chết trận vẫn không ngừng được đưa về, chiến sự càng căng thẳng, cậu càng bận rộn.
Số lần con cáo đến thăm cậu càng ngày càng nhiều, nó luôn lựa lúc chỉ có mình cậu để xuất hiện.
Hôm đó, cậu phụng mệnh đi ra ngoài nhặt củi, vừa bò lên sườn núi, một vật thể không rõ lăn lông lốc ra khỏi bụi cỏ về phía cậu, là một quả trứng gà đã được luộc chín. Đây là thứ xa xỉ.
Cậu nhặt quả trứng lên, nhìn vào bụi cỏ, một gương mặt cáo nửa trắng nửa đen ló ra, chớp mắt nhìn cậu.
“Mi cho ta à?” Cậu vui vẻ.
Con cáo chui ra khỏi bụi cỏ, liếm móng vuốt của mình.
“Mi trộm ư?” Cậu cố ý nhíu mày, “Không được trộm đồ!”
Con cáo ngáp một cái.
“Lần sau không được làm thế nữa đâu đó!” Cậu cẩn thận cất quả trứng, tiếp tục đi về phía trước.
Con cáo lẽo đẽo đi theo cậu, lúc thì nhảy vào bụi cỏ vờn chuột, lúc lại nhảy lên nhánh cây thấp rung lắc để tuyết rơi xuống đầy đầu cậu.
Cậu không hề giận. Ở với con cáo dễ chịu hơn ở với mấy người trong quân doanh nhiều.
Hôm đó cậu đi rất xa, đi mãi tới tận một thôn làng nhỏ. Có hai tên lưu manh đang cản đường một thiếu phụ trẻ tuổi, ngả ngớn nói gì đó, thiếu phụ xách cái giỏ trúc vừa xấu hổ vừa sợ hãi né tránh.
Nếu cậu đã nhìn thấy, kết quả rất đơn giản, với thân thủ của cậu, đánh hai tên lưu manh kia nhừ đòn không khó.
Nhìn chúng chạy trối chết, thiếu phụ liên tục cảm tạ cậu, nói mình đang trên đường về thăm nhà mẹ đẻ, nào ngờ giữa đường đụng phải hai tên lưu manh. Nói xong, thiếu phụ lấy mấy cái bánh bột ngô nóng hổi từ trong giỏ trúc ra đưa cho cậu để làm quà cảm ơn, nói binh hoang mã loạn, cậu còn nhỏ mà cũng phải mặc giáp ra chiến trường đúng là nghiệp chướng, tuy không giúp được gì nhưng ăn hai cái bánh bột ngô cũng lấp bụng phút chốc.
Cậu hơi ngượng nhưng vẫn nhận tấm lòng của nàng ấy, nói lời cảm ơn nàng.
Lúc đi, thiếu phụ còn than vắn thở dài, cậu loáng thoáng nghe nàng ấy nói thời này muốn sống thật không dễ dàng.
Con cáo nhô đầu ra khỏi thân cây, cậu chỉ về phía thôn xóm cách đó không xa: “Ta đi xem thử có tìm được thức ăn và rượu để chống lạnh không.”
Con cáo đi theo sát người cậu.
Thôn rất nhỏ, chỉ le que mấy hộ gia đình, các mảnh ruộng khô cằn xếp thành một hàng, không hề có dấu hiệu nào là vừa thu hoạch.
Cậu gõ cửa từng nhà, cuối cùng thu hoạch được ba củ khoai lang và một miếng thịt lợn nhỏ. Cậu trả tiền cho họ nhưng họ không nhận, thật ra họ hơi sợ cậu, cứ gọi cậu là tiểu quân gia. Hết cách, cậu đành nhét tiền xu vào khe cửa.
Rời khỏi thôn, cậu quay đầu, nhìn thấy con cáo đang ngậm cái túi rượu, nhân lúc cậu không chú ý, thằng nhỏ này lại lẻn vào nhà ai để trộm rồi.
Cậu lắc đầu, cầm túi lắc lắc, còn ít nhất một nửa túi, cậu hỏi con cáo: “Mới đi trộm?”
Con cáo ngồi xổm trước mặt cậu, ngoẹo đầu nhìn cậu.
Cậu thở dài: “Không hỏi mà lấy là giặc, dân chúng sống khó khăn, đừng trộm của họ nữa.”
Con cái ve vẩy cái đuôi.
Cậu bứt cọng cỏ dại, buộc mấy xu tiền lại, giơ ra trước mặt con cáo: “Đi trả tiền rượu cho người ta.”
Con cáo lập tức ngậm lấy rồi chạy vào trong thôn. Thằng bé này thông minh ghê, cậu cười.
Cậu nhóm lửa, xiên nhánh cây qua miếng thịt, cẩn thận nướng. Con cáo nằm bên cạnh cậu, ôm củ khoai lang gặm say sưa, vừa gặm vừa nhìn miếng thịt.
“Có phần của mi, lo gì?” Cậu buồn cười.
Thịt không nhiều lắm nhưng rất thơm, cậu xé một miếng to cho con cáo, nói: “Ăn đi, cảm ơn mi đã tốt với ra.”
Ăn xong củ khoai lang, con cáo không khách sáo há miệng ngậm miếng thịt nướng, nhưng vì nóng quá nên nó xoay vòng vòng. Cậu cười to.
Mở nút túi rượu ra, mùi rùi nồng xông vào mũi. Cậu rất ít khi uống rượu, thứ nhất là vì còn nhỏ tuổi, thứ hai là không chịu nổi vị cay nồng xé họng đó. Phụ thân từng cười cậu, nói không biết uống rượu thì mãi mãi không thể trở thành đàn ông.
Người trong quân doanh rất thích uống rượu, được uống rượu thỏa thích là ước mơ của họ, nhưng vì cung ứng thiếu thốn, thỉnh thoảng uống được một chén rượu nhỏ là tốt lắm rồi.
Cậu còn biết một kiểu người thích vác kiếm cầm rượu phiêu bạt giang hồ. Họ không bao giờ có đích đến, đi tới đâu hay tới đó, họ sẽ say rượu ngắm hoa dẫu vui hay sầu, cũng sẽ gặp chuyện bất bình rút đao tương trợ. Đối với họ, điều quan trọng nhất không phải là ngày mai mà là sống tiêu dao ngày hôm nay. Người như thế được gọi là hiệp khách.
Cậu giơ túi rượu lên hớp một ngụm, cay quá, cậu sặc đến mức chảy nước mắt, nhưng lại thấy rất ngon, uống thêm một ngụm, vẫn cay, nhưng lần này dòng nước ấm nóng từ miệng thấm vào người, rất sảng khoái.
Con cáo đã ăn thịt xong, liếm miệng nhìn.
“Mi muốn uống rượu?” Cậu ngà ngà say, xòe tay, đổ rượu ra lòng bàn tay, đưa đến trước mặt con cáo.
Con cáo không chút do dự vùi đầu liếm tay cậu, trông rất hưởng thụ, uống liền mấy “chén”, sau đó lảo đảo ngã xuống bên cạnh cậu, nó say rồi.
Một người một cáo, nửa bình rượu nồng cạn đáy.
Cậu thoải mái nằm trên đống cỏ khô nhìn bầu trời đầy sao hiếm khi thấy được, lẩm bẩm: “Cha ta không biết rằng ta chẳng muốn lập chiến công vẻ vang, cũng chả cần quan to lộc hậu, ta chỉ muốn vác kiếm cầm rượu ngao du thiên hạ, gặp lưu manh thì đánh, có thịt thì ăn, không cần lo lắng ngày mai có đánh giặc hay không, cũng không cần sợ hãi những người quen ngày hôm nay sẽ chết vào ngày mai.”
Con cáo nhích lại nằm gần cậu, đôi mắt màu xám hé mở.
“Nếu mi là người thì tốt quá, chúng ta làm huynh đệ, cùng nhau bầu bạn đi đến những nơi thú vị, cùng nhau uống rượu cùng nhau ăn thịt.” Cậu tiếp tục nhìn trời.
Con cáo nằm nghe, dần dần nhắm mắt lại, khò khè.
“Này này, đừng ngủ!” Cậu ngồi dậy, chọc vào cơ thể đầy lông của nó, “Trời lạnh lắm, ngủ rồi là không tỉnh dậy được đâu!”
Con cáo phớt lờ cậu, vẫn ngủ.
“Say rồi hả?” Cậu thở dài, đứng dậy hất củi để đống lửa đang sắp tắt được cháy thêm một lát nữa, sau đó ôm con cáo vào lòng, cho đến khi đống lửa tắt hẳn mới ôm nó đứng dậy, vác đống củi giẫm ánh trăng bàng bạc quay trở về.
Gần đến quân doanh, con cáo tỉnh dậy, nhảy ra khỏi lòng cậu rồi chạy vào rừng sâu.
Cậu duỗi lưng, hài lòng về doanh trại.
Những ngày sau đó, con cáo vẫn như thường lệ, khi cậu ở một mình thì nó sẽ nhảy ra chơi với cậu. Họ càng lúc càng thân thiết, nó cũng càng ngày càng to gan, thường xuyên rung cây cho tuyết đọng trên cây rơi xuống người cậu, có khi xếp lá cây thành hoa rồi cài lên tóc cậu. Lần nó yên tĩnh nhất là khi cậu cõng nó leo lên một cái cây rất cao vào lúc rạng sáng, một người một cáo ngồi trên chạc cây dõi mắt ngắm mặt trời ló dạng.
Dưới ánh nắng xa xa, không có chiến hỏa, không có xác chết, nhưng nơi đó xa quá…
***
Một sáng nọ, cậu nói với con cáo: “Bọn ta phải đi rồi, cuối cùng đội quân của bọn ta đã hoàn toàn đánh bại kẻ địch.”
Con cáo vẫn như trước đây, ngoẹo đầu nhìn.
Cậu sờ đầu nó: “Ta phải trở về Thành Đô phồn hoa, mi muốn đi cùng ta không?”
Con cáo liếm tay cậu, sau đó xoay người chạy mất, mãi đến ngày họ nhổ trại, nó vẫn không xuất hiện. Cậu thấy hơi mất mát, cảm giác như đã mất đi một người bạn. Nhưng như thế cũng tốt, kinh thành không có rừng cho nó ẩn thân, có lẽ ở đó có rất nhiều người muốn đeo khăn choàng cổ đuôi cáo, nó ở đây sẽ tốt hơn. Cậu bình thường trở lại.
Lúc gần đi, cậu giắt cái túi rượu trên cái cây thấp ngoài doanh trại. Ngày hôm sau, túi rượu biến mất. Đến khi túi rượu xuất hiện trở lại thì nó được giắt bên hông một công tử mặc áo xám, khoảng cách với lần đầu tiên nó xuất hiện xấp xỉ bốn mươi năm. Túi rượu cũ đến mức không thể đựng rượu được nữa, nhưng công tử đó vẫn giắt nó bên hông hệt như bảo bối.
Một ngày nọ, hắn lang thang trên con phố hỗn loạn ở nước Thục, nói đúng hơn là nơi này không còn được gọi là nước Thục nữa, thiên hạ hiện tại đã nằm trong tay nam nhân họ Triệu, nam nhân đó đã viết một bài thơ:
Thái dương chiếu rọi bốn phương
Muôn nghìn ngọn núi sáng choang lửa hồng.
Nắng kia soi tới tận cùng
Trăng tàn sao rụng ấy càng hiển nhiên.
Nước Thục của nhà họ Mạnh chỉ là vì sao rơi rụng.
Hắn lại ngửi thấy mùi vị của rất nhiều năm trước, nó tản ra từ trong vũng bùn bị chôn vùi dưới lớp tuyết, là mùi vị của chết chóc. Rất nhiều người đang khóc, rất nhiều người đang sợ, không có ai để ý tới một kẻ ở nơi khác đến như hắn.
Chẳng hề dễ dàng để biến thành người, hắn đã núp trong núi sâu, tu luyện suốt bốn mươi năm. Hắn đi thẳng về phía trước, cảm giác người muốn tìm đang ở phía trước. Hắn đứng ở vùng đất xa lạ nhìn người đàn ông trung niên cưỡi trên lưng chiến mã được tiền hô hậu ủng, hắn không nói gì, vẫn duy trì trạng thái ẩn thân, đứng đối diện người đàn ông trung niên.
Gương mặt không biến đổi nhiều lắm, khác chăng chỉ là có thêm nhiều nếp nhăn và sự từng trải cùng với hai bên tóc mai đã điểm hoa tiêu, ánh mắt vẫn sáng như ngày nào, nhưng thứ rõ nhất trong ánh mắt là “sát khí”.
Hắn đứng ở một góc, lẳng lặng ngắm nhìn người bạn bốn mươi năm trước.
Người ấy không còn muốn vác kiếm làm hiệp khách giang hồ nữa rồi, người ấy của hôm nay là Đại tướng được kính nể nhất, sau lưng có hàng vạn binh lính hùng mạnh, nắm trong tay quyền sinh quyền sát. Người ấy diệt nhà họ Mạnh để chiếm thiên hạ, lúc toàn thắng, chính người ấy hạ lệnh giết chết hai vạn hàng binh(1) nước Thục.
(1) Hàng binh: binh lính của một bên tham chiến tự nguyện chạy sang hàng ngũ đối phương.
Nghĩ tới đây, hắn mới cảm nhận rõ rệt người trước mặt rất khác so với người vào bốn mươi năm trước.
Chiến mã chở cố nhân mang chiến tích vẻ vang đi lướt qua hắn, hắn cầm túi rượu, đứng im.
Bốn mươi năm rất dài, có thể thay đổi một thiếu niên và giấc mộng của cậu ấy.
Hắn chưa từng biết người ấy tên gì, nhưng bây giờ thì biết rồi. Hắn muốn gọi tên người ấy, nhưng chợt phát hiện chẳng thể thốt thành lời cái tên khi đã trễ mất bốn mươi năm.
Thôi, cứ vậy thôi. Hắn cười.
***
Chuyện lại có biến hóa.
Trong triều đủ mọi quan lại cùng nhau dâng sớ lên cho hoàng đế, lên án người ấy “Tham ô hối lộ, tàn sát hàng binh”, theo luật phải chém.
Tất cả mọi người đều cho rằng người ấy sẽ chết chắc, chứng cứ phạm tội vô cùng xác thực, không thể cãi lại, thậm chí ngay cả bản thân hắn cũng thừa nhận mọi tội lỗi. Nhưng kết quả cuối cùng là: “Niệm công lao cũ, mở lòng khoan hồng. Thu lại binh quyền, ghi danh sử sách. Ta không quên ơn, ngươi tự hối lỗi.”
Hoàng đế tha thứ cho người ấy, cách chức người ấy, không giết người ấy.
Quần thần trong triều ngờ vực trăm mối nhưng thiên tử đã mở miệng vàng, cho dù họ bất mãn thì cũng chẳng dám nhiều lời. Nhưng vị thái giám thân cận hoàng đế đã lén nói với một người, rằng chính tai vị thái giám ấy nghe hoàng đế giận dữ nói “Chẳng thể thiên vị, chém ngay không tha”, nào ngờ hôm sau hoàng đế thay đổi thái độ, không còn tức giận nữa mà lại tỏ ra cực kỳ tiếc nuối, quả là khó hiểu.
Tất cả mọi người khó hiểu là vì họ không nhìn thấy hắn lẻn vào hoàng cung trong tối đó, càng không ai nhìn thấy hắn thả một luồng ánh sáng đỏ nhạt vào bát chè hạt sen của hoàng đế, hoàng đế vừa ăn, hắn vừa đứng bên cạnh lầm bầm cái gì đó, cho đến khi hoàng đế ăn xong, hắn mới lẳng lặng rời đi.
Từ đó, hắn không gặp cố nhân nữa, chỉ nghe nói người ấy sống rất tốt.
Lại mười hai năm trôi qua, vào năm nay, sau khi vị hoàng đến thứ hai của nước này lên ngôi, người ấy đã qua đời vì bệnh, hưởng dương sáu mươi chín tuổi.
Ngày hạ táng, mưa giăng lối, tiếng khóc than của con cháu rung động đất trời. Không ai biết bên cạnh ông lão nằm trong quan tài đã có thêm một túi rượu cũ kỹ.Xem thêm...
Chương 1.4
Edit: Sa
“Ơ ơ! Sao đang nói mà ngủ thế kia?” Trong khách điếm, tiểu hòa thượng chọc cái đuôi bị đứt của hồ ly đang nằm gục bên chăn bông, quay đầu lo lắng hỏi nàng: “Rốt cuộc là sao thế? Có cứu được không?”
Nàng vuốt ve bộ lông mượt mà của hồ ly, cười tự tin.
Tiểu hòa thượng mừng rỡ: “Cứu được hả?!”
“Nó chết chắc.”
“Hả?” Hiểu lầm sự tự tin của nàng, tiểu hòa thượng từ trên mây rơi xuống vực thẳm, “Đến cả cô mà cũng không cứu được ư?”
“Cậu có biết đuôi quan trọng như thế nào đối với hồ ly không?” Nàng lườm cậu: “Nó chẳng những tự chặt đuôi của mình mà còn nuốt hơn vạn U Phù, chẳng khác nào tự uống thạch tín và đâm mình một đao. Ta chỉ là đại phu, không cứu nổi những kẻ ngu xuẩn như vậy.” Dứt lời, nàng lại bổ sung: “Hơn nữa, đây chỉ là một con “cáo xám”, đối với loài cáo xám, cái đuôi chính là mạng sống.”
Tiểu hòa thượng sốt ruột, gãi cái đầu trọc đi tới đi lui trước giường, làu bàu: “Thế thì phải làm sao bây giờ, làm sao bây giờ?” Sau đó, cậu chợt dừng lại, hỏi: “Cáo xám là gì?”
“Là một loài đặc biệt trong các loại hồ yêu, xuất thân từ núi Đản Viên, mắt màu xám nên được gọi là cáo xám, trời sinh có hai màu đen trắng, lúc mới ra đời không chia giống đực hay cái, sau khi trưởng thành, dựa vào ý nguyện của bản thân mà sẽ trở thành nam hay nữ. Cái đuôi là vật quý giá nhất của cáo xám, biến đuôi thành dải sáng, vừa cho một người ăn dải sáng đó vừa đọc tên họ và bát tự của một người khác bất kỳ thì người ăn dải sáng tất sẽ nảy sinh lòng yêu mến người được đọc tên, dẫu có thù giết cha cũng chẳng để bụng.” Nàng nói rõ từng câu từng chữ, “Vì đuôi của nó quý giá là thế nên từ xưa đến nay có vô số người muốn lấy đuôi nó để mê hoặc người khác. Chính vì vậy, số lượng cáo xám càng ngày càng ít.”
“Ra thế…” Tiểu hòa thượng buồn bã.
Hồ ly trên giường co giật, không mở mắt, nói: “Vậy là cô nương không cứu được ta?”
“Mi nghĩ ta có cách cứu mi không?” Nàng hỏi ngược lại.
Hồ ly mở mắt ra, quay đầu nhìn cái mông trụi lủi của mình: “Cái đuôi bị đứt có mọc lại được không?”
Nàng lắc đầu: “Cơ thể của mi tàn tạ quá rồi, bị ngấm quá sâu oán khí của U Phù. Dẫu ta cho mi dùng thuốc mọc lại đuôi thì cơ thể tàn tạ của mi cũng sẽ không chịu nổi.”
“Thì ra là thế…” Hồ ly thở dài, “Thôi vậy.”
“Mi tự làm tự chịu, không trách người khác được.” Nàng bĩu môi, nhổ cây kim mảnh như sợi lông ra khỏi đỉnh đầu hồ ly, búng cây kim đi, cây kim hóa thành nước, rơi xuống đất rồi biến mất, “Kể ra thì mi tốt số đó, nuốt nhiều U Phù thế mà vẫn sống được tới bây giờ.”
“Cô quan tâm tới thứ gọi là U Phù đó?” Hồ ly hỏi.
“Phàm là vật có sinh mệnh, sau khi chết sẽ lưu lại vài thứ mà người bình thường không nhìn thấy, những thứ này cũng chia ra tốt hoặc xấu.” Nàng ngáp một cái, “Hai vạn hàng binh bị uổng mạng, U Phù ngấm vào đất Thục hẳn là oán niệm sâu nặng, chỉ muốn hủy diệt đất trời. Người ấy có thể sống bình an tới già và chết yên ổn ở nhà, coi như mi đã dồn hết tâm sức.”
Hồ ly im lặng chốc lát, nói: “Không hẳn tất cả là vì người ấy. Nước Thục gặp họa mất nước, ta thì thích nơi có non sông nước biếc, vốn dĩ muốn tìm một nơi yên tĩnh để tu luyện, lại vô tình phát hiện xung quanh vùng đất hàng binh bị giết thường xuyên có dân chúng bị thứ không rõ là gì tấn công. Tuy ta không có đuôi, yêu lực cạn kiệt nhưng vẫn mạnh hơn đám đạo sĩ chỉ biết ba cái võ mèo cào mà họ tìm. Nuốt hết những U Phù này, lấy thân thể mình phong ấn là phương pháp duy nhất mà ta nghĩ ra.”
“Cứu người chỉ là một trong những nguyên nhân, nguyên nhân chính là mi sợ nếu không làm gì U Phù, chúng sẽ càng lúc càng mạnh, và cuối cùng là sẽ tìm người kia để báo thù, đúng chứ?” Nàng quỳ bên giường, đặt cằm lên mép giường nhìn thẳng vào mắt nó, “Oan có đầu, nợ có chủ, mi cần gì phải thu dọn tàn cuộc thay hắn?”
Hồ ly thở dài một hơi, nhắm mắt lại: “Ta nợ người ấy một cái đuôi.”
Nàng đứng dậy, nhún vai: “Mi vui là được. Có điều…” Nàng chợt nhớ ra một chuyện: “Mi hẹn gặp ta ở khách điếm Phong Tuyết không phải để mượn tay ta diệt trừ mấy con sên kia chứ?”
Hồ ly chậm rãi nói: “Thế gian bớt đi vài người chết oan uổng thì cô nương cũng chẳng tổn thất gì. Thân thể của ta quá yếu, đánh trực diện e không phải là đối thủ của con sên. Chẳng qua cô nương trơ mắt nhìn bốn thương nhân chết đúng là nằm ngoài dự liệu của ta.”
“Ta chỉ cứu yêu quái, không cứu con người.” Nàng mỉm cười.
“Bất kể thế nào, trước khi chết vẫn có thể gặp mặt Đào Yêu cô nương một lần, coi như không còn gì tiếc nuối.” Hồ ly chôn mặt sâu hơn, “Hại cô đi tay không một chuyến, xin lỗi nhé.”
Tiểu hòa thượng kéo tay áo nàng, nhìn nàng bằng đôi mắt ngấn lệ.
“Cậu cất bộ mặt này đi, chừng nào đi hóa duyên hẵng lấy ra xài!” Nàng hất tay cậu ra.
Tiểu hòa thượng bất khuất níu tay áo nàng, mồm miệng lưu loát, nức nở: “Cùng lắm là sau này ta xin được thức ăn thì sẽ chia cho cô phần lớn!”
“Bà đây muốn ăn thịt!”
“Cô không giống bà… Không giống bà già chút nào!”
Nàng nổi da gà da vịt, vội vàng đẩy tiểu hòa thượng ra: “Đứng qua một bên! Ta nói cho cậu biết, ta cứu không nổi con hồ ly này, trừ khi thanh tẩy nó.”
Hai mắt tiểu hòa thượng rực sáng: “Thanh tẩy?”
“Là biến nó trở lại nguyên hình hoàn toàn trước khi nó tắt thở, trả lại trạng thái vừa ra đời của nó. Nhưng quá trình “thanh tẩy” rất đau đớn, không chịu nổi thì sẽ chết, còn nếu nó chịu đựng nổi thì nó sẽ chỉ là một con cáo xám tầm thường, không có yêu lực, không có ký ức, không có gì cả.” Nàng liếc xéo tiểu hòa thượng, “Cậu hỏi xem nó có đồng ý không?”
Tiểu hòa thượng còn chưa mở miệng thì hồ ly đã ngẩng đầu: “Ta đồng ý.”
“Tưởng mi ngủ xong chết luôn rồi chứ.” Nàng nghiêm túc nói: “Nếu mi chết trong quá trình này, đừng trách ta đấy.”
“Không trách cô đâu.” Hồ ly lắc đầu.
“Được rồi.” Nàng quay trở lại bên giường, giơ tay trái ra trước mặt hồ ly, “Vậy thì ta sẽ chữa trị cho mi. Thế thì, theo quy tắc của ta, phàm là yêu quái được ta chữa trị đều phải đáp ứng làm thuốc cho ta. Nào, giơ móng vuốt ra, đâm vào tay ta làm dấu đi!”
“Thuốc?” Hồ ly ngờ vực.
“Ta là đại phu, thứ quan trọng nhất trong cuộc sống chắc chắn là thuốc.” Nàng cười hì hì, “Mi đồng ý làm thuốc của ta có nghĩa là một ngày nào đó ta cần bất cứ thứ gì của mi thì mi đều phải hiến tặng cho ta vô điều kiện, ta muốn tai của mi thì mi phải cắt đi, muốn móng vuốt của người thì mi cũng phải cắt đi, hiểu không?”
“Nghiệp chướng, ôi nghiệp chướng…” Tiểu hòa thượng nắm Phật châu nói thầm, bị nàng hung tợn trừng mắt thì lập tức ngậm miệng lại.
Hồ ly suy nghĩ một chút, vươn móng vuốt ra đâm nhẹ vào tay nàng, nói: “Thế này được chưa?”
“Mi cũng hào sảng đấy chứ.” Nàng nhìn bàn tay trống trơn, thấy một luồng ánh sáng mờ chạy qua, nàng hài lòng xoa bàn tay, “Được rồi, ta chữa trị cho mi.” Nói xong, nàng gỡ cái túi vải đeo ở bên hồng ra, lục tìm hồi lâu, lấy ra một cái hồ lô nhỏ cỡ ngón tay cái của người trưởng thành, bất mãn làu bàu: “Phiền ghê, trước hết phải rút hết U Phù trong người mi ra đã.”
“Ta niệm kinh cho cô!” Tiểu hòa thượng tiến lại gần nàng.
“Cậu không niệm thì ta sẽ tiến hành suôn sẻ hơn đấy!” Nàng đẩy tiểu hòa thượng ra, “Đi ra cửa trông chừng, đừng để ai vào!”
“Ờ, vậy ta ra cửa niệm kinh…”
Đến khi trong phòng chỉ còn nàng và hồ ly, nàng lấy một viên thuốc màu đen trong túi vải ra, trước khi đút cho hồ ly, hồ ly đột nhiên ngăn hành động của nàng lại.
Nàng nhướn mày: “Sao? Đổi ý à?”
“Ta biết cô vẫn luôn muốn hỏi tại sao ta lại liều lĩnh cứu người ấy.” Hồ ly chậm rãi nói: “Ta uống viên thuốc này rồi thì sẽ không trả lời cô được nữa.”
Nàng ngẩn người: “Mi nói đi.”
“Ta không cứu người ấy.” Đôi mắt dài hẹp của hồ ly cong lên như vành trăng, “Người mà ta cứu là chàng thiếu niên ngồi bên đống lửa uống rượu nồng, đem lòng mơ ước vác kiếm phiêu bạt giang hồ vào một đêm đông của nhiều năm về trước.”
Một lúc lâu sau, nàng lên tiếng, nói: “Há mồm!”
***
Rạng sáng, nhóm sai nha trước cửa quan phủ phát hiện ba cái rương lớn, mở ra, bên trong có tất cả sáu đứa bé khoảng một, hai tuổi, vẫn còn sống nhưng bị bất tỉnh. Một phong thư kẹp trong một cái lỗ, nội dung chỉ có mấy hàng chữ:
Vô tình gặp được bốn người ở khách điếm, buôn bán là giả, buôn người mới là thật, kẻ xấu đã bị tiêu diệt, mấy đứa bé không sao, chỉ ngủ say vì bị trúng thuốc mê thôi, không bao lâu sau sẽ tỉnh, xin hãy xử lý thỏa đáng.
Bọn nha dịch ngơ ngác nhìn nhau, sau đó vội vàng khiêng mấy cái rương vào phủ bẩm báo.
Trước khi vào nước Thục, nàng nhìn thấy tờ truy nã do quan phủ treo lên, trên giấy vẽ mặt của bốn nam nhân, hoành hoành ngang ngược, giết người cướp của, thỉnh thoảng còn buôn người. Nàng không có sở trường gì, chỉ là mắt hơi tinh, trí nhớ hơi tốt, cho nên nói làm kẻ xấu cũng cần phải có may mắn. Đáng tiếc thi thể của bốn kẻ này không còn, nếu không thì cầm tới quan phủ đổi được tiền thưởng rồi…
Sáng sớm, trên đường phố, tuyết đọng trắng xóa kháp nơi, tuy không thể so sánh với phương Bắc nhưng cũng đủ khiến người ta vui thích.
Đào Yêu vừa chà tay hà hơi vừa thưởng thức phong cảnh hai bên. Phía sau, tiểu hòa thượng ôm một cục lông xù chẳng to hơn con thỏ là bao, lặp đi lặp lại cứ như tụng kinh: “Đào Yêu! Bỏ nó lại ư?! Bỏ nó lại ư?!”
Đào Yêu giả lơ, nói to: “Kìa ai câu tuyết bên sông. Áo tơi, nón lá, một ông thuyền chài.”(1)
“Đào Yêu Đào Yêu Đào Yêu! Bỏ nó lại ư bỏ nó lại ư??!!” Tiểu hòa thượng đuổi theo nàng, tiếp tục lải nhải.
“Chó sủa đâu ngoài ngõ. Người về đêm tuyết theo.”(2) Đào Yêu nghiêng mặt qua một bên.
“Đào Yêu! Nó còn nhỏ xíu, làm sao mà sống một mình nổi? Sao cô nhẫn tâm bảo ta vứt nó ở ven đường chứ?!” Tiểu hòa thượng sốt sắng, bật thốt: “Cô là đồ vô nhân tính!!”
Đào Yêu đột ngột đứng lại làm tiểu hòa thượng suýt đụng vào nàng.
“Ta không có nhân tính?” Đào Yêu một tay chống nạnh, một tay chỉ vào mũi tiểu hòa thượng, “Năm đó nếu không phải kẻ không có nhân tính ta đây vớt cậu trong đống xác của các hòa thượng, ngậm đắng nuốt cay một tay lo liệu ăn ngủ ỉa đái nuôi lớn cậu thì cậu có sống nổi tới hôm nay không? Ta chưa mắng nuôi cậu tốn cơm, ăn hoài không lớn thì thôi, cậu còn mắng ngược lại ta?”
Tiểu hòa thượng đỏ bừng mặt, nín nhịn hồi lâu mới lấy can đảm nói: “Cho nên đằng nào cô cũng nuôi ta rồi, nuôi thêm đứa nữa cũng có làm sao!”
Đào Yêu hừ lạnh: “Nhà của chúng ta chỉ nuôi nổi một kẻ vô dụng thôi.”
Tiểu hòa thượng tức giận giậm chân, ôm chặt con vật trong ngực hơn: “Được! Cô không nuôi, ta nuôi! Không ăn một hạt cơm của cô, không tốn một xu tiền của cô đâu!”
“Vậy cậu mang theo nó cút ngay cho ta.” Đào Yêu đi thẳng không thèm ngoái đầu.
Tiểu hòa thượng tủi thân đứng im tại chỗ, buồn muốn khóc. Con vật trong ngực thò đầu ra, đó là con cáo con nửa trắng nửa đen, đôi mắt xám xoay tròn, dè dặt liếm mặt tiểu hòa thượng, sau đó cố gắng nhoài người ra khỏi lồng ngực của tiểu hòa thượng, nhảy xuống đất, dựng lông lên, tò mò quan sát thế giới này. Nó cái gì cũng tốt, chỉ có cái đuôi là bị cụt, trông không giống cáo mà giống thỏ hơn, là một cục lông tròn trịa.
Đào Yêu nói phải chờ đến khi đuôi nó mọc dài thì nó mới có thể trở về làm hồ yêu chân chính, mới có tư cách chính thức tu luyện.
Đi thật xa, Đào Yêu lén ngoái đầu, tiểu hòa thượng đáng ghét không đi theo! Nàng xoay người, cách đó mười thước, tiểu hòa thượng và tiểu hồ ly đều đang ngồi chồm hổm dưới đất, mong ngóng nhìn nàng cứ như ăn mày nhìn người qua đường, thỉnh thoảng tiểu hồ ly còn ngoẹo đầu.
Gió lạnh thổi qua, nàng giậm chân, nghiến răng nói: “Ta đã tạo bao nhiêu nghiệt thế này?!”
Nói xong, nàng hùng hổ xông tới, chỉ vào tiểu hòa thượng nói: “Lắm Lời, cậu nghe cho rõ đây, sau này cậu phải nuôi nó, phải lo ăn uống ngủ nghỉ của nó, còn nữa, nếu nó bị người ta bắt thì cậu tự đi cứu, nếu cậu cũng bị bắt thì hãy cùng nó biến thành món canh thịt, đừng mong ta cứu các cậu!”
Tuy cậu luôn bất mãn Đào Yêu đặt cái tên đó cho cậu nhưng hôm nay lại nghe cực kỳ lọt tai.
Lắm Lời lập tức nín khóc, mỉm cười: “Cô đồng ý rồi?”
“Ta không đồng ý!” Đào Yêu hừ một tiếng, xoay người bỏ đi.
Lắm Lời vội vàng ôm lấy tiểu hồ ly, hưng phấn nói: “Đào Yêu chịu chứa chấp mi rồi! Sau này hãy đi cùng bọn ta nhé!”
Con cáo nhỏ ngoẹo đầu, mở to hai mắt.
Tuyết ngừng rơi, phố xá dần đông đúc, Đào Yêu cầm một cái bánh nướng nóng hổi, vừa ăn vừa quan sát đám trai gái đi ngang qua, Lắm Lời tìm một cái gùi, bỏ con cáo vào trong, đeo gùi lên lưng, hào hứng xuyên qua phố xá, vừa đi vừa trò chuyện cùng nó, chỉ cho nó biết đây là nhà, kia là bánh bao, phía xa là mây. Đào Yêu cảm thấy bộ dạng này của tiểu hòa thượng cực kỳ ngớ ngẩn.
Con cáo ngoan ngoãn nằm trong gùi, thỉnh thoảng thò đầu ra khỏi nắp gùi ngó đông ngó tây.
Đào Yêu liếc nó một cái.
Câu nói cuối cùng của nó trước khi nuốt viên thuốc là: Ta còn muốn sống, muốn ngắm nhìn thời kỳ hưng thịnh này.
Đào Yêu duỗi lưng, thật ra nàng cũng muốn ngắm.
Nếu Lắm Lời nói phải vân du tứ hải mới có thể làm một hòa thượng tốt thì nàng sẽ cố mà đi cùng, so với Đào Đô, chốn nhân gian đẹp đẽ sinh động này thú vị hơn nhiều.
Cách đó không xa, Lắm Lời đứng trước một cái quán nhỏ hào hứng vẫy tay với nàng: “Mau qua đây qua đây, cái tượng này đẹp ghê!”
Nàng lườm: “Tới liền tới liền! Suốt ngày chỉ biết xem mấy thứ vô ích!”
Mặt trời dần lên cao, ánh nắng sáng rỡ đã lâu không thấy càng lúc càng chiếu rọi đám người, thanh âm phố phường lan rộng khắp ngõ.
(1) Hai câu thơ trong bài “Giang Tuyết” của tác giả Liễu Tông Nguyên do Tản Đà dịch.
(2) Hai câu thơ trong bài “Phùng tuyết túc Phù Dung sơn chủ nhân” của Lưu Trường Khanh do Lê Nguyễn Lưu dịch.Xem thêm...