- Cô đừng lo, tôi hứa với cô. Mau đứng lên đi, nền nhà lạnh lắm!
Lúc này cô ấy mới bình tâm lại và chịu đứng lên. Tôi động viên cô ấy ăn uống nhưng cô ấy chỉ gật đầu lấy lệ. Rồi nhân lúc tôi không để ý, cô ấy xoay người nhanh như cắt, ra sức đập đầu vào bức tường bên cạnh. Khi tôi kịp nhận ra thì thân thể cô ấy đã đổ xuống đất, một vệt máu dài còn nguyên trên bức tường màu trắng.
Tôi ôm cô ấy vào lòng, gào thét, hô hoán nhưng cô ấy đã tắt thở. Tôi đau xót, lau vết máu trên trán cô ấy, khẽ thì thào, nức nở:
- Cô hãy yên lòng, tôi sẽ chăm lo cho Jumodaban. Ngày sau, nếu Dharma thích nó, tôi sẽ sắp xếp cho hai đứa ở bên nhau.
Thi thể của Kunga Zangpo và Zhouma được quấn bọc vải trắng, thả trôi theo dòng nước xiết trên dòng sông Trum-chu, chớp mắt, đã không còn dấu vết. Bát Tư Ba rất yếu, Dharma còn quá nhỏ, tôi không muốn họ phải chứng kiến cảnh tượng đau lòng này. Vài người đến đưa tiễn, họ nhanh chóng tản mác mỗi người một hướng. Bên bờ sông ngập đá sỏi chỉ còn lại tôi và Chân Kim. Lúc này đã là đầu mùa xuân, băng tuyết đang tan dần. Bầu trời xanh thăm thẳm, chim ưng sải cánh bay lượn, tôi hít vào lồng ngực luồng khí lạnh tê tái, ngẩng đầu ngắm nhìn bánh xe pháp luân đồ sộ trên đỉnh điện thờ Lakhang. Đó là nơi ở của Bát Tư Ba.
- Ta lệnh cho Senge chỉ huy quân đội Mông Cổ xây dựng một gian điện của đền Nam Sakya, chẳng ngờ bọn họ lại thiết kế theo phong cách của người Hán.
Giọng nói trầm ấm của Chân Kim vang lên sau lưng tôi. Tôi quay đầu lại, đã thấy cậu ta đứng bên cạnh, nhìn tôi đăm đắm.
Tôi né tránh ánh mắt rạo rực của cậu ta, rảo bước về phía điện thờ Lakhang.
- Họ không thông hiểu về phong cách kiến trúc của người Tạng, xây dựng theo kiểu kiến trúc của người Hán cũng hay mà.
- Tiểu Lam... – Cậu ta gọi tôi lại, rồi khẽ thở dài. – Ta phải về Đại Đô.
Tim tôi đập rộn, tôi thẫn thờ nhìn cậu ta.
- Ta sẽ để lại một cánh quân làm nhiệm vụ bảo vệ Dharma, không kẻ nào được phép xâm phạm đến Thế tử. Những kẻ đứng về phía Kunga Zangpo trong cuộc chiến vừa rồi, ta sẽ lưu đày tất đến Giang Nam xa xôi, suốt đời không được phép quay lại đất Tạng.
Tôi cúi đầu, hích mũi chân vào mấy viên đá nhỏ, khe khẽ đáp lại:
- Cảm ơn cậu, Chân Kim.
Cậu ta lại gần bên tôi, đôi mắt buồn ảo não:
- Hai năm tám tháng gian nan trên đường từ Lâm Thao đến Sakya, cộng thêm bốn tháng ở lại Sakya, tổng cộng, ta đã ở bên em ba năm. Tình cảm ta dành cho em thế nào, ta tin là em hiểu.
Tôi quay mặt đi, hướng mắt về phía dòng nước chảy xiết:
- Chân Kim, tôi hiểu nhưng tôi còn con trai...
Cậu ta cúi đầu, buồn bực giẫm mạnh lên lớp tuyết trắng muốt:
- Tiểu Lam à, ta rất muốn ở lại với em vì ta tin rằng, sau khi đế sư qua đời, chắc chắn một ngày nào đó em sẽ chấp nhận tình cảm của ta. Nhưng ta là thái tử một nước, gánh vác trên vai trọng trách nặng nề, ta không thể bỏ mặc tất cả.
Rồi cậu ta ngẩng lên, nhìn tôi tha thiết, ánh mắt như mặt trời giữa trưa:
- Trở về Đại Đô không có nghĩa ta từ bỏ em. Chờ khi Dharma kế vị đế sư, Phụ hoàng chắc chắn sẽ cho vời cậu ấy đến Đại Đô, ta sẽ chờ em ở đó.
Tôi kinh ngạc:
- Nếu vậy sẽ phải chờ rất nhiều năm nữa...
Cậu ta ngắt lời tôi, giọng nói quyết liệt:
- Ta sẽ giữ lời hứa với em, sau khi về Đại Đô, sẽ không nạp thêm bất cứ thê thiếp nào nữa.
Tôi vừa bực mình vừa buồn cười:
- Dù cậu có làm vậy đi nữa, tôi cũng không yêu cậu.
- Yêu hay không là lựa chọn của em. – Cậu ta khẽ thở dài, nhưng giọng nói thì chắc nịch. – Ta cũng có quyền giữ lời hứa của mình.
Tôi chỉ im lặng. Ánh hoàng hôn đổ dài trên dáng hình cao lớn, vạm vỡ của cậu ta. Cậu ta quay mặt vào vùng tối nên tôi không thấy rõ gương mặt, nhưng giọng nói trầm ấm, quyết liệt của Chân Kim khiến nhiều năm sau vẫn còn văng vẳng bên tai tôi.
Tháng 4 năm 1277, Chân Kim và Senge dẫn theo đại quân Mông Cổ rời Sakya, trở về Trung Nguyên. Nội loạn đã được dẹp bỏ, đất Tạng khôi phục lại trật tự cũ. Địa vị thống lĩnh đất Tạng của Bát Tư Ba được củng cố vững chắc chưa từng có. Nhưng đây cũng là lúc, sinh mệnh của chàng chỉ còn đếm được từng ngày.
~.~.~.~.~.~
- Bắt đầu từ thời điểm này, trong vòng ba năm, Bát Tư Ba tập trung toàn bộ sức lực còn lại của chàng vào việc sưu tầm, chỉnh lý sách cổ và kinh văn Phật giáo bằng tiếng Tạng. Sưu tầm được cuốn sách nào, chàng lập tức sai người chép lại. Những năm qua, mỗi dịp đi lại giữa Trung Nguyên và đất Tạng, đến bất cứ đâu chàng cũng ra sức sưu tầm sách cổ của địa phương rồi sai người chép lại, lưu trữ trong kho sách ở Sakya. Riêng với những kinh văn quan trọng, chàng sẵn sàng bỏ ra rất nhiều vàng khối, sai người nghiền nhỏ thành bột, trộn với mực để viết, làm vậy để lưu giữ kinh văn được lâu bền. Có lần chàng đã bỏ ra hơn bốn nghìn lạng vàng để chép lại cuốn kinh Cam Châu Nhĩ(Ganggyur) thuộc bộ kinh Đại Tạng. Niềm đam mê của Bát Tư Ba đã lan sang cả Chân Kim, nên ngay khi đặt chân đến Sakya, cậu ta lập tức đổ công sức và kinh phí vào việc chép lại kinh văn bằng bột vàng, sau đó đề nghị Bát Tư Ba ghi lời đề tặng.
Chàng trai trẻ tấm tắc ca ngợi:
- Bát Tư Ba muốn tận dụng chuỗi thời gian còn lại để gìn giữ những di sản văn hóa phong phú cho thế giới này.
Tôi gật đầu:
- Bát Tư Ba đánh giá rất cao việc chép lại các thư tịch và kinh văn cổ xưa, chàng có được sự hỗ trợ to lớn về mặt kinh phí từ triều đình nhà Nguyên, bởi vậy, đền Sakya đã trở thành một thư viện sách Tạng đồ sộ. Nhiều Phật điện của ngôi đền này đều có những bức tường sách. Những giá sách ngồn ngộn kinh văn xếp cao chất ngất, che kín những mảng tường cao vút trong điện thờ.
Chàng trai trẻ tò mò:
- Bây giờ còn đọc được những kinh văn quý giá đó nữa không?
Tôi lắc đầu rồi lại gật đầu:
- Đáng tiếc là đền Bắc Sakya đã bị hủy hoại hoàn toàn trong cuộc Cách mạng Văn hóa, những kinh văn trong ngôi đền này cũng theo đó mà tiêu tan. Hiện chỉ còn đền Nam Sakya là lưu giữ được khoảng hơn hai mươi nghìn cuốn kinh tiếng Tạng. Nhiều học giả cho rằng những pho sách tiếng Tạng trong đền Sakya có thể sánh ngang với kinh văn ở Đôn Hoàng. Sakya được xem là Đôn Hoàng thứ hai. Những tài sản quý giá này đều nhờ vào công đức của Bát Tư Ba.