Lục Kiêu luôn nghe theo sự an bài của Thần Niên, cũng không dây vào công việc của trại, lần này nghe nhiều rồi thì lại không nhịn được lên tiếng: “Đám người đỉnh Hổ Khẩu kia chẳng qua chỉ là đám sơn tặc, làm sao biết được phương pháp thủ thành này nọ, các người hiểu lệch đi rồi. Theo ta thấy, chọn mấy người khinh công tốt đi vào trước, giết người xong mở thẳng cửa thành ra là xong”.
Thần Niên và Thôi Tập lúc này mới bất chợt vỡ lẽ, Thần Niên bật cười nói: “Chắc là chúng ta hiểu lệch thật rồi, thật sự coi đỉnh Hổ Khẩu làm thành trì để phá”.
Hiện giờ xem ra, với họ mà nói, phá trại cũng không phải việc khó khăn. Thôi Tập lại cân nhắc thêm chốc lát, nói: “Còn có một chuyện, đó là sau khi công phá trại rồi thì làm thế nào để chiếm lĩnh được trại, chúng ta ít người, đối phương đông người, tuy nói là đám sơn tặc hung hãn song cũng không thể giết sạch bọn chúng được, chứ đừng nói là trong đó cũng chẳng phải toàn những kẻ vô cùng hung ác, tội không đáng chết”.
Thần Niên cười nói: “Ta đã nghĩ ra một cách, cậu nghe thử xem có được không”.
Nàng bèn nói cách mà mình đã nghĩ cho Thôi Tập nghe, Thôi Tập nghe xong, cân nhắc kỹ lưỡng rồi nói: “Tôi thấy khả thi!”.
Hai người hiện là nhân vật đứng đầu Ngưu Đầu trại, nếu đã quyết định việc này rồi thì đều tự bắt tay vào an bài. Thần Niên tìm Ôn Đại Nha và vài thủ hạ đắc lực đến, kiên trì dặn dò kĩ một lần, rồi tỉ mỉ giảng giải cho bọn họ chỗ then chốt bên trong, nói: “Hiện giờ Giang Bắc đã đại loạn, nếu chúng ta chỉ cố thủ ở đây, sớm muộn gì cũng lâm vào đường chết. Chi bằng hạ quyết tâm, tiến thêm một bước nữa”.
Mấy người còn lại đều phấn khích, chỉ riêng Ôn Đại Nha cẩn thận dặt dè, phân vân nói: “Đại đương gia, liệu có mạo hiểm quá không?”.
Thần Niên cười nói: “Cầu phú quý trong nguy hiểm mà! Chúng ta tuy không cần phú quý, nhưng mong đường sống cũng là lẽ thông thường”.
Tiêu Hầu Nhi càng kêu to hơn: “Đại đương gia nói chỉ có chuẩn! Nếu giống Ôn đại ca nhát gan lúc trước, e là giờ chúng ta đã chết đói hết rồi”.
Thấy tất cả mọi người đồng tình, Ôn Đại Nha cũng không phản đối nữa, chỉ nói: “Việc này nếu muốn làm thì phải tính toán cho kĩ”.
Thần Niên biết tính khí của Ôn Đại Nha, liền nói: “Yên tâm, ta đã có tính toán, nhưng việc trong trại chúng ta mấy ngày nay vẫn cần huynh giúp, dựng nhà cũng được, giáo huấn những người mới đến cũng được, đều không thể lơ là, để tránh người khác nhận ra sơ hở”.
Ôn Đại Nha cũng thích làm mấy việc này, vội vã đồng ý. Ngưu Đầu trại đã có Ôn Đại Nha trông nom, Thần Niên liền toàn tâm toàn ý vạch mưu vụ đỉnh Hổ Khẩu kia.
Vì ngoài núi loạn lạc, nạn dân tràn vào núi càng lúc càng đông. Không biết ở nơi nào bất ngờ tỏa ra tin tức, nói đỉnh Hổ Khẩu có người chia lương thực, tin tức truyền miệng làm rất nhiều người dân không còn đường nào để đi lao đến. Không quá vài ngày, dưới chân đỉnh Hổ Khẩu đã có đến vài trăm nạn dân lưu lạc. Người của đỉnh Hổ Khẩu mặc dù đã vài lần xuống núi xua đuổi, nhưng vẫn luôn có người mượn danh nhị đương gia của đỉnh Hổ Khẩu lén chia lương thực cho dân ở đây, bởi vậy mà nạn dân chẳng những không giảm bớt mà còn ngày càng nhiều lên.
Đại đương gia của đỉnh Hổ Khẩu lòng như lửa đốt, nhị đương gia lại càng oan ức vạn phần, mà Ôn Đại Nha ở Ngưu Đầu trại cũng nhìn kho thóc ngày một vơi đi mà đau lòng khôn xiết, vài lần còn lén hỏi Thần Niên: “Đại đương gia, còn muốn chuyển lương đến đó sao? Cho nữa thì đến mùa đông chúng ta không còn gì mà ăn mất”.
Thần Niên mỉm cười, đáp: “Yên tâm, chờ vài ngày nữa, ta sẽ trả cho huynh nguyên một hầm ngầm lương thực”.
Nàng vất vả tính kế với đám đỉnh Hổ Khẩu tạm thời không bàn đến nữa, lại nói đến bên ngoài, tình hình cũng biến đổi bao điều trong chớp mắt. So sánh với Giang Bắc loạn lạc không ngớt, Giang Nam mặc dù cũng náo nhiệt một trận, nhưng từ khi đại quân Vân Tây rút về đã khôi phục lại sự yên bình của ngày xưa.
Phong Quân Dương đi không bao lâu, hoàng đế sắc phong Phong quý phi Phong thị lên làm hậu, cử hành một đại lễ sắc phong hết sức long trọng.
Đại lễ qua đi, hai người đế hậu được cung nữ hầu hạ thay lễ phục, Phong thị mới được phong hậu tự mình đưa chén trà đến tận tay Hoàng đế, hờn dỗi: “Hoàng thượng cũng thật là, trong lòng có thần thiếp là được rồi, cần gì làm những chuyện ồn ào rình rang như thế, triều thần không biết lại nói gì thần thiếp thì sao”.
Hoàng đế mỉm cười nhận lấy chén trà đặt sang một bên, vươn tay kéo Phong hậu ngồi cạnh mình, cười nói: “Ai thích nói gì thì cứ nói, quan tâm làm gì! Bọn chúng còn nói nàng là yêu tinh hại nước, sẽ làm trẫm mất giang sơn. Kết quả thì sao? Nếu không nhờ Phong gia của nàng trung thành, giang sơn này của trẫm đã bị các huynh đệ thúc bá như hổ như sói cướp đoạt lâu rồi”.
Phong hậu dịu dàng dựa vào lòng Hoàng đế, mềm mỏng nói: “Hoàng thượng là chân long thiên tử, tự có trời cao bảo vệ. Những phiên vương kia chẳng qua là binh tép tướng tôm, cho dù nhất thời bật nhảy thật mạnh song cũng chỉ là tiểu nhân nhãi nhép, sao có thể sánh với hoàng thượng được”.
Những câu này làm Hoàng đế hết sức mãn nguyện, nhưng nghĩ tới đám phiên vương tuy bị Phong Quân Dương đánh bại song vẫn có thực lực, không khỏi nhức đầu, nói: “Tỷ đệ các nàng cũng cẩn thận quá rồi, nên bảo Quân Dương ở lại trong triều giúp trẫm, đệ ấy đi như vậy, thật ra lại khiến đám thất phu kia không kiêng dè gì”.
Phong hậu nghe vậy, lệnh cho cung nữ trong điện lui ra, đứng dậy quỳ xuống cúi lạy Hoàng đế, nghiêm mặt can gián: “Hoàng thượng, thiên hạ là thiên hạ của Tề thị, dù là người phụ chính thì cũng phải vời vương gia họ Tề đức cao vọng trọng vào triều, sao có thể gọi người đằng ngoại phụ chính? Không nói đến việc sẽ làm phiên vương hoàng thất bất mãn, ngay cả trong triều cũng sẽ có nhiều ý kiến. Hơn nữa, Quân Dương dẫu hết lòng trung thành với hoàng thượng, nhưng nếu ở Thịnh Đô lâu, chưa biết chừng thuộc hạ của đệ ấy sẽ nảy sinh thứ tâm tư không nên có. Đến lúc đó trong có họ ngoại lạm quyền, ngoài có phiên vương làm loạn, hoàng thượng sẽ xử trí thế nào?”.
Thực ra đã từng có cựu thần trung thành nói với Hoàng đế lời này từ lâu, bản thân Hoàng đế cũng tường tận tỉ mỉ suy nghĩ không biết bao nhiêu lần. Nhưng ngài chưa từng nghĩ rằng sẽ có ngày nghe thấy những câu nói này từ miệng người con gái trước mắt mình, nhất thời bất giác sững sờ, im lặng nhìn Phong hậu, không nói nên lời.
Phong hậu mím cánh môi hồng, nói tiếp: “Theo ngu kiến của thần thiếp, nếu hoàng thượng muốn chọn đại thần phụ chính, chi bằng lựa lấy một vị vương gia họ Tề vừa cúc cung tận tụy lại vừa đức cao vọng trọng. Nếu làm thế, vừa biểu lộ lòng dạ của hoàng thượng, lại có thể che được miệng người trong thiên hạ, để người ta biết hoàng thượng vốn không phải không thể khoan dung cho huynh đệ thúc bá nhà mình, Việt vương và Lĩnh Nam vương đã bỏ mạng, đều là gieo gió gặt bão”.
Hoàng đế trầm mặc rất lâu, chìa hai tay nâng Phong hậu dậy, xúc động nói: “Nữ tử hậu cung tuy nhiều, nhưng chỉ có một mình nàng là toàn tâm toàn ý suy nghĩ cho trẫm”.
Phong hậu lộ vẻ thẹn thùng, cụp mắt xuống đáp: “Thần thiếp cũng có lòng riêng, chỉ mong được hoàng thượng coi trọng, bầu bạn dài lâu, yêu chiều không ngớt”.
Nàng thẳng thắn bộc trực nhường ấy càng khiến Hoàng đế cảm động, vươn tay ôm nàng vào lòng, thì thầm: “Nàng một lòng chân thành với trẫm, trẫm nhất định không phụ nàng”.
Trước mắt Phong hậu chợt hiện lên bóng dáng một người con gái tươi cười xán lạn đầy tự đắc, hoàng hậu Tiêu thị từng kiêu ngạo nói với nàng rằng “Bản cung và hoàng thượng thiếu niên kết tóc, ân ái suốt mười năm”, rồi cuối cùng, nàng ta lẻ loi trơ trọi chết trong lãnh cung.
Ôi! Lời âu yếm của Hoàng đế, nói ra thì động lòng người biết mấy, song không đáng tin nhất! Phong hậu hiền thục nép vào lòng Hoàng đế, trên khóe môi thoáng hiện nét cười nhạt nhòa giễu cợt.
Nơi ngàn dặm xa xôi, Phong Quân Dương dẫn theo mấy chục hộ vệ vừa về tới Vân Tây, nói với Vân Tây vương đang nằm trên giường bệnh: “Phụ vương đoán không lầm, vận số của Tề thị chưa hết, chư phiên vương tuy đại bại song thực lực vẫn còn, nếu nhi thần cố chấp ở lại Thịnh Đô sẽ chỉ khiến bọn chúng liên hợp phản đòn. Chi bằng cứ tạm thời lui dần từng bước, xem chư vương Tề thị nội đấu trước đã, đến khi bọn chúng đã hoàn toàn mất lòng người, Vân Tây ta sẽ lại thừa cơ tiến vào. Trước đây là nhi thần nôn nóng”.
Vân Tây vương cũng biết người đã sắp dầu cạn đèn khô, chỉ dựa vào nhân sâm trăm năm để gắng gượng mới có thể chờ đến khi Phong Quân Dương về. Ông chậm chạp đưa đôi mắt mờ đục nhìn binh phù nọ một cái, lào khào cất tiếng nói: “Con có thể ẩn nhẫn kiềm chế như thế đã là tốt rồi, cha đây dẫu giờ có chết cũng có thể nhắm mắt”.
Phong Quân Dương nghe thế quỳ bên giường khóc nức nở: “Phụ vương đừng nói thế, người còn phải nhìn nhi thần thay người gây dựng thiên hạ này, ủng hộ người đăng cơ làm hoàng đế nữa”.
“Con có thể chiếm thiên hạ này thì cũng vậy thôi.” Ông khó nhọc nuốt khan, “Lấy việc thành thân với Thái Hưng để bình ổn Giang Bắc, trước định Giang Nam rồi mới mưu đồ lên Bắc. Đề phòng Hạ Trăn, người này tâm cơ thâm trầm, không thể khinh nhờn”.
Phong Quân Dương đáp lại trong tiếng khóc: “Vâng”.
Vân Tây vương ngừng lại một lúc rồi mới cố hết sức nói: “Sau khi ta chết, đối xử tử tế với mấy huynh đệ khác, cũng đừng giết tam đệ của con. Đừng trách phụ vương bất công, chỉ là phụ vương hiểu con mình quá rõ thôi. Việc con bị tập kích ở Giang Bắc, nó không có bản lĩnh tính toán tinh vi như thế, bên trong còn nhiều điều kì lạ, không biết ai đã mượn tay nó làm việc này”.
Phong Quân Dương khóc không thành tiếng, đáp: “Nhi thần biết, sẽ không chấp nhặt với nó”.
Vân Tây vương ngừng lại một chút, đoạn nói: “Đừng quá tin đại tỷ con, con gái đã gả ra ngoài như bát nước hắt đi, không thể hoàn toàn tin được”.
Thấy Phong Quân Dương thoáng tỏ vẻ chần chừ, trên mặt Vân Tây vương liền lộ ra nụ cười chế nhạo: “Con thực sự nghĩ việc đại tỷ con vứt bỏ đứa bé đó là vì Phong gia chúng ta sao?”.
Phong Quân Dương cúi đầu, im lặng không đáp.
Vân Tây vương nói: “Con là đứa con ta vừa ý nhất, sao có thể không nhìn thấu được, chẳng qua là con không muốn tin thôi. Đứa bé ấy thai tượng không ổn, đều phải nhờ vào thuốc để nuôi, đại tỷ con lén tìm một thần y bên ngoài vào cung, nghe thần y kia nói đứa bé vốn thể chất ốm yếu, cho dù miễn cưỡng sinh ra cũng không sống được quá trăm ngày, nên con bé mới nhẫn tâm làm vậy”.
Phong Quân Dương không thể tưởng được bên trong lại rối rắm như thế, chàng cũng an bài tai mắt trong cung Thịnh Đô, nhưng chưa từng được nghe chuyện thần y này, thậm chí đến việc thai tượng của Phong quý phi không ổn cũng chưa từng nhận được tin tức, hiển nhiên có thể thấy Phong quý phi đã giấu giếm chuyện lần này kín kẽ đến chừng nào.
Không đợi chàng hỏi, Vân Tây vương đã hỏi: “Có phải con muốn hỏi vì sao ta lại biết đúng không?”.
Phong Quân Dương im lặng một chút rồi đáp: “Vâng”.
Vân Tây vương có phần cố sức nhếch khóe miệng, trào phúng nói: “Vì thần y kia do chính ta phái đi”.
Phong Quân Dương nghe mà lạnh cứng sống lưng, chỉ cảm thấy không rét mà run.
Ánh mắt trống rỗng của Vân Tây vương nhìn lên đỉnh màn, thật lâu sau mới giống như đang nói một mình rằng: “Lòng phải ác, mới có thể làm việc lớn”.
Phong Quân Dương muốn đáp một tiếng “vâng” nhưng cổ họng như thể bị một đôi tay vô hình nào đó bóp chặt, không tài nào phát ra được âm thanh.
Hơi thở của Vân Tây vương đột ngột dồn dập hẳn, hồng hộc như kéo bễ trong chốc lát, miễn cưỡng nói: “Việc hậu sự ta đã sắp xếp ổn thỏa cả, con không cần lo lắng. Xuống đi, gọi mẫu thân con vào đây”.
Phong Quân Dương cung kính rời khỏi điện, đổi lại thành Vân Tây vương phi đi vào. Mấy người thiếp bị giữ trong sân vốn cũng muốn đi vào, nhưng lại bị vương phi lạnh lùng lừ mắt, sợ đến mức dừng khựng bước chân, sợ hãi đứng ở hành lang thấp giọng nức nở không thôi.
Trong sân, mấy cậu con trai khác của Vân Tây vương kính cẩn đứng đó, bất kể bụng dạ suy nghĩ ra sao, trên mặt đều tỏ thần sắc đau thương, Phong Quân Dương chỉ thờ ơ nhìn bọn họ một cái rồi thu tầm mắt về, thất thần nhìn phiến đá xanh dưới chân.
Không biết bao lâu sau, trong điện vẳng ra tiếng khóc nức nở của Vân Tây vương phi. Phong Quân Dương bỗng cảm thấy trong lòng trống rỗng, hình như xót thương, nhưng hình như cũng có chút nhẹ nhõm mơ hồ. Chàng chậm rãi nhắm mắt lại, hồi lâu sau mới mở mắt, từ giờ trở đi, chàng chính là Vân Tây vương rồi.
Giang Bắc, thời tiết càng lúc càng lạnh thì ngày cũng càng lúc càng ngắn. Đám Thần Niên đứng dưới vách đá phía Bắc đỉnh Hổ Khẩu chờ chưa đầy vài canh giờ thì cảnh chiều hôm đã nhuộm vàng bốn phía. Lục Kiêu vắt một cuộn dây nhỏ trên vai, quay đầu nhìn Thần Niên, hỏi thêm một lần nữa: “Cô thật sự muốn đi lên cùng ta?”.
Thần Niên xỏ đôi găng tay tơ vàng lấy từ chỗ Triêu Dương Tử, cười một cái với Lục Kiêu, nói: “Nếu sư phụ ta mà nghe thấy câu này của ngươi, thế nào ngươi cũng bị bà mắng. Đừng có lắm lời nữa, có khi tốc độ của ta còn nhanh hơn ngươi”.
Lục Kiêu lại nhìn nàng, giờ mới nói: “Cô lên trước đi, ta ở phía sau”.
Thần Niên không khách khí với hắn, chân mượn lực trên mỏm đá nhún một cái, thân thể đã nhẹ nhàng nhảy lên trên hơn một trượng, đưa tay bám lấy một tảng đá nhô ra. Thân hình nàng hơi dừng lại, đầu ngón chân lại khẽ điểm một chút trên vách đá, còn chưa thấy dùng sức thế nào, người đã nhảy lên trên thêm một trượng nữa, vịn vào một chỗ khác.
Người ở đáy dốc nom thế chỉ cảm thấy thân mình nàng nhẹ nhàng vô cùng, chỉ trong chớp mắt đã leo đến chỗ cao vài chục trượng. Tiêu Hầu Nhi kích động đến vò đầu bứt tóc, kêu lên: “Trích Tinh Thủ! Là Trích Tinh Thủ sư phụ đã dạy, không ngờ sư tỷ lại dùng nó ở đây!”.
Trích Tinh Thủ vốn là một bộ chưởng pháp, Thần Niên lại học và hành như một môn khinh công, đến Tịnh Vũ Hiên nhìn thấy cũng phải khen nàng một câu đầu óc linh hoạt. Lục Kiêu ngẩng đầu mỉm cười nhìn Thần Niên, đến lúc nhìn nàng leo được quá nửa mới lấy tay bám vào núi đá, không nhanh không chậm leo lên trên, ánh mắt thường quét về phía Thần Niên, như thể lo nàng sẽ trượt tay rơi xuống dưới.
Vách núi kia tuy dựng đứng nhưng may mà không cao lắm, chưa quá thời gian một nén nhang, Thần Niên đã nhẹ nhàng nhảy lên đỉnh núi. Một lát sau, Lục Kiêu mới đủng đỉnh leo đến nơi, Thần Niên không khỏi có phần đắc ý, cười hỏi hắn: “Sao? Khinh công của ta có tốt bằng huynh không?”.
Lục Kiêu nghĩ ngợi, đoạn đáp: “Nếu vách đá này cao hơn vài chục trượng nữa, cô sẽ bại dưới tay ta”.
Chiêu thức của Thần Niên tuy tuyệt diệu, song cần có nội lực thâm hậu để cầm cự, nếu vách núi dựng đứng này mà cao hơn trăm trượng, nàng quả thực không thể dùng cách này để đi lên. Thần Niên cười bảo: “Huynh nói đúng lắm, nếu vách núi cao hơn, nội lực của ta không đủ, sẽ phải tìm một nơi ở giữa để thở lấy hơi mới xong”.
Lục Kiêu chỉ cười không nói không rằng, tháo cuộn thừng trên vai ra, thong thả thả xuống đáy dốc. Giờ này trời đã tối, chỉ có thể nhìn thấy dưới đáy dốc đốt vài ngọn đuốc, đến khi ngọn lửa kia lúc lắc trái phải, Lục Kiêu lại kéo thừng, buộc chặt sợi dây rắn chắc vào một gốc đại thụ.
Thần Niên đã châm sáng một chiếc đèn lồng con, thấy Lục Kiêu buộc dây thừng xong thì lắc chiếc đèn vài cái với phía đáy dốc, làm một ám hiệu.
Một lúc sau, Tiêu Hầu Nhi bám theo sợi thừng leo lên đầu tiên, mọi người cũng từng người từng người trèo lên. Người đến đích cuối cùng là Đại Ngốc, thân hình y cao lớn nặng nề nhất, bên hông còn cột thêm hai chiếc chùy đá, mệt đến nỗi thở hồng hộc, ngồi bệt xuống đất, gào to: “Mệt chết mất thôi, lần sau đánh chết đệ cũng không chơi trò này đâu”.
Thần Niên kiểm kê lại nhân số một lượt, không thiếu ai cả mới thấy yên lòng, nói với mọi người: “Làm việc như thế nào đã bảo các người rồi, nhớ đừng có hoảng sợ, chỉ cần làm việc theo kế hoạch sẽ ổn thôi”.
Mọi người nhao nhao gật đầu, giờ Thần Niên và Lục Kiêu mới đưa mắt nhìn nhau, cùng đi về phía sơn trại.