Ông nói xong lại nhìn Thần Niên, nói: “Cô cũng không cần đuổi theo sư phụ mình, hơn nữa có đuổi cũng không kịp. Chờ khi cô đến nơi, người nên đánh cũng đã đánh, người nên giết cũng đã giết, ngay cả người nên chạy cũng đã chạy rồi”.
Giờ mọi người mới yên lòng, Thần Niên nghĩ ngợi, cũng cảm thấy không đuổi kịp Tịnh Vũ Hiên. Đại Ngốc lại tò mò, không nhịn được hỏi Triêu Dương Tử: “Đạo trưởng, ngài đã quen biết Tịnh tiền bối từ lâu rồi ạ?”
Tâm tư của Triêu Dương Tử đang đặt nơi Tịnh Vũ Hiên, nhất thời không nghĩ ngợi nhiều, trả lời câu hỏi của y: “Biết từ lâu rồi. Lúc ta biết bà ta, bà ta vẫn còn là tiểu cô nương, còn trẻ hơn đại đương gia của các người. Khi ấy bà ta bị người ta đánh trọng thương, nếu không nhờ ta tốt bụng cứu giúp thì đã mất mạng rồi. Nhưng bà ta rất vô lương tâm, sau khi vết thương tốt lên còn đánh cho ta một trận trước...”.
Triêu Dương Tử nói được một nửa, lúc này mới đột nhiên có phản ứng, giương mắt thấy mọi người đều nghe đến là say mê, nhất thời thẹn quá hóa giận, khua phất trần trong tay xua mọi người ra ngoài, mắng: “Cút, cút, cút, ăn no rửng mỡ không có việc gì làm à? Phải làm gì thì đi làm đi!”.
Mọi người bị ông đuổi chạy tán loạn bốn phương, nhưng lại bật cười hô hố.
Thần Niên nhịn cười trách mắng mọi người vài câu rồi mới bảo họ đi làm việc, mình thì dẫn Ôn Đại Nha và Thôi Tập vào mật thất ngầm kiểm kê số vàng bạc lấy được ở Tuyên Châu. Bởi vì số lượng quá lớn, Ôn Đại Nha thấy mà ánh mắt sáng lấp lánh, trong mật thất rõ ràng chỉ có ba người họ, nhưng hắn vẫn hạ thấp giọng, nói với Thần Niên: “Đại đương gia, nhiều vàng bạc để đây thế này tôi lo lắm, ban đêm chắc tôi phải chuyển đến đây ngủ mới được”.
Thần Niên bất giác bật cười, nói: “Mấy thứ này dù có nhiều hơn nữa cũng không thể thay đồ ăn thức uống được, ta thấy vẫn cứ nên nhanh chóng đổi thành lương thực mới ổn”.
Thôi Tập gật đầu tỏ vẻ đồng tình: “Trong thời loạn, chỉ có lương thực là quan trọng nhất, có lương thực mới có thể cứu mạng người. Giờ nhân dịp Giang Nam còn chưa đại loạn, hẳn là nên mua chút lương thực dự trữ. Mặt khác, còn phải nghĩ cách mua thêm binh khí về nữa”.
Thần Niên đã từng nghĩ muốn đến Giang Nam mua lương thực, nhưng đi Giang Nam không những phải đi qua phía Nam Thái Hành mà còn phải qua Nghi Bình, há lại dễ dàng tới đó như thế! Ngay cả Triêu Dương Tử đi mua dược liệu vẫn ít nhiều cần Phong Quân Dương phái người hộ tống, mới có thể bình an trở về sơn trại.
Nàng trầm ngâm nói: “Phía Nam Thái Hành có bạn cũ của ta, nghĩ cách cũng không khó đi qua lắm. Nhưng phía Nghi Bình, Hạ Trạch vì đánh nhau với Trương gia nên giờ mới không rảnh tính món nợ một vạn lượng vàng với chúng ta. Nếu muốn đi qua địa bàn của gã, còn phải cố gắng nghĩ cách mới được”.
Ba người trong mật thất đi ra, Thần Niên tự về phòng luyện công, Ôn Đại Nha và Thôi Tập cùng đến phòng nghị sự xử lý công việc trong trại. Trên đường, Ôn Đại Nha nhìn trái phải không có ai, không nhịn được nhỏ giọng hỏi Thôi Tập: “Đệ nói hai hôm nay không thấy bóng dáng Lục thiếu hiệp đâu, có phải cảm thấy mất mặt nên không tiện ra ngoài gặp người khác không?”.
Bọn họ đều nhận ra Lục Kiêu có tình ý với Thần Niên, không ngờ giữa đường lại lòi ra một Vân Tây vương vung đao cướp tình, dù là ai cũng đều không chịu nổi việc này. Thôi Tập trầm mặc không nói, Ôn Đại Nha lại nói liên mồm: “Ta nói chứ cái này đúng là tạo hóa trêu ngươi, đệ nói Lục thiếu hiệp và đại đương gia của chúng ta đúng là một đôi thật xứng đúng không, sao tự nhiên lại xuất hiện tên Vân Tây vương này cơ chứ?”.
Thôi Tập ngại hắn om sòm, thờ ơ liếc mắt một cái, hỏi: “Ôn đại tẩu, việc riêng của đại đương gia thì liên quan gì đến tẩu?”.
“Đại đương gia cũng là nhất thời hồ đồ nên mới đi theo tên vương gia kia. Có cái, vương gia đúng là tuấn tú thật, vừa đứng cạnh đại đương gia một cái thôi là giống như một đôi thần tiên ấy.” Ôn Đại Nha nói xong, lại tấm tắc thêm vài tiếng, rồi mới đột ngột nhận ra vừa nãy xưng hô của Thôi Tập không đúng, hỏi: “Ấy? Vừa rồi đệ gọi ta là gì?”.
Thôi Tập lại chẳng đáp lời hắn mà bước nhanh về phía phòng nghị sự. Gần đây, vì thanh thế đỉnh Hổ Khẩu lớn dần, có rất nhiều nhân sĩ giang hồ đến cậy nhờ, Thôi Tập lo sẽ có gian tế trà trộn vào, bởi vậy hết sức cẩn thận dè dặt.
Thần Niên cũng biết việc này quan trọng, trừ lúc luyện công đều cùng Thôi Tập bàn bạc xem nên an bài cho những người mới đến cậy nhờ ra sao, hao tổn rất nhiều tinh thần và sức lực. Nửa tháng bề bộn cứ vậy trôi qua, Tịnh Vũ Hiên lại đột nhiên trở về, trong tay còn xách một cái túi siêu to, trong túi căng phồng, vẫn đang động đậy. Ôn Đại Nha tò mò, tiến lên mở túi ra xem, không ngờ bên trong lại là một lão hòa thượng sống sờ sờ!
Tịnh Vũ Hiên chỉ vào lão hòa thượng nọ, nói với Thần Niên đang trợn mắt há mồm: “Đây là lão hòa thượng nổi tiếng nhất Thịnh Đô, ta bắt lão đến đây, bắt lão giảng giải tỉ mỉ cho chúng ta cái gì mà tâm thanh tâm sáng!”.
Thần Niên kinh ngạc nửa buổi sáng không nói nên lời, cuối cùng Ôn Đại Nha lại hoàn hồn trước, lau mồ hôi lạnh hỏi Tịnh Vũ Hiên: “Sao lão nhân gia lại đi Thịnh Đô?”.
Tịnh Vũ Hiên cười hì hì, nói: “Tiểu tử họ Phong đó nói cũng có chút đạo lý, đã là võ công do nhà Phật tạo ra, sao có thể là ma công, chắc hẳn là phương pháp luyện công của chúng ta không đúng, phải tìm lão hòa thượng như thế này để hỏi mới được. Hắn bảo người giúp ta tìm đấy, nói đây là một vị cao tăng đắc đạo”.
Thần Niên tiến lên, đỡ lão hòa thượng đứng dậy, hỏi: “Cao tăng?”.
Lão hòa thượng lại niệm một câu A di đà phật trước “ Không cao, không cao, chỉ là lão hòa thượng”.
Lão trả lời rất lý thú, đám Ôn Đại Nha bất giác đều nở nụ cười, Thần Niên cẩn thận nhìn lão vài lần, thấy mặt mũi lão hiền lành, tròn trịa hòa khí, liền hỏi tiếp: “Pháp danh của lão hòa thượng là gì?”.
“Tuệ Minh, lão hòa thượng pháp danh Tuệ Minh.” Lão hòa thượng đáp.
Thần Niên dù chưa từng nghe danh hào của vị đại sư này nhưng lại gật đầu ra chừng hiểu rõ, khách sáo nói: “Tuệ Minh đại sư từ xa tới vất vả, có cần đi nghỉ ngơi trước không?”.
Không ngờ Tuệ Minh lại nghiêm trang đáp: “Dọc đường chưa hề tự mình đi, thật ra cũng không vất vả, chỉ hơi đói bụng”.
Thần Niên lia mắt nhìn cái túi vải bố trên mặt đất, nghĩ Tịnh Vũ Hiên lại xách lão hòa thượng đi suốt dọc đương, vô cùng buồn cười, cười bảo: “Đại sư ngồi chờ một chút, ta kêu người chuẩn bị cơm chay cho đại sư”.
Tịnh Vũ Hiên lại không tốt tính như thế, chỉ hỏi Tuệ Minh: “Lão hòa thượng, ta lại hỏi ngươi, rốt cuộc cái gì là tâm an, tâm tịnh, tâm ngộ, tâm sáng?”.
Tuệ Minh đáp: “Đây là tâm thiền”. Thấy Tịnh Vũ Hiên lộ vẻ mặt mất kiên nhẫn, không đợi bà hỏi, vội vàng giải thích: “Thiền giả, tâm của Phật. Thiền chính là điều cần thiết của Phật, cũng chính là cái tâm thanh tịnh mà người người vốn có”.
Tịnh Vũ Hiên lại hỏi: “Tâm này từ đâu mà có?”.
“Không thể đến từ bên ngoài, phải dựa vào tự thân kiểm chứng lãnh hội, chấm dứt vọng tưởng, chuyển hóa phiền não, bước tiếp theo sẽ đạt được tâm an, tâm tịnh, tâm ngộ, tâm sáng, ngộ ra Phật tính vốn có.”
Tịnh Vũ Hiên nghe cái hiểu cái không, kinh ngạc nói: “Tâm ta cũng rất thanh tịnh, sao lại tẩu hỏa nhập ma?”.
Tuệ Minh niệm một câu Phật pháp, nói: “Tẩu hỏa chỉ là Đạo gia nói vậy thôi, trong giáo lí nhà Phật vốn không tu theo cách thức này, nên sẽ không xảy ra sự cố tẩu hỏa này”.
Lời này làm cả Tịnh Vũ Hiên lẫn Thần Niên nghe mà sửng sốt, Thần Niên càng hỏi: “Không có tẩu hỏa, sao lại nhập ma?”.
“Ma do tâm sinh. Có mưu cầu, mới nhập huyễn cảnh, tâm sinh cảm ứng, để thành ma. Trên đời vốn vô sự, đều tự mình chuốc lấy.” Tuệ Minh khẽ khàng thở dài, nhìn Thần Niên, lại hỏi: “Nữ thí chủ, cơm chay đã xong chưa? Nếu còn chậm thêm chút nữa, lão hòa thượng không cần tu hành liền có thể đi Tây Thiên rồi”.
Thần Niên không khỏi bật cười, vội gọi người đỡ Tuệ Minh đi xuống dùng cơm, lại khuyên Tịnh Vũ Hiên: “Sư phụ, dù sao người cũng đã tìm lão hòa thượng đến đây rồi, lão không chạy được đâu, cần gì vội vàng một chốc lát”.
Giờ Tịnh Vũ Hiên mới bỏ cuộc, dặn Thần Niên trông chừng lão hòa thượng kia, mình thì về phòng nghỉ ngơi.
Thần Niên suy xét một lát, không nhịn được chậm rãi lắc đầu, quay ra cửa, hỏi Lục Kiêu bên cạnh: “Huynh nói xem Phong Quân Dương đang có tính toán gì?”.
Lục Kiêu trầm mặc một lát, đoạn đáp: “Việc này, hẳn là hắn không mưu tính gì”.
Thần Niên cười nhạt, nói: “Khó nói”.
Thần Niên đi tuần mỗi chỗ cần tuần sát trong trại một lượt, rồi lại xuống dưới chân núi xem dân chúng làm ruộng. Đường núi không quá gồ ghề, hai người họ thủng thẳng tản bước, Thần Niên bỗng dưng hỏi Lục Kiêu: “Sao huynh không hỏi ta chuyện ngày hôm ấy?”.
Lục Kiêu đáp: “Ta tin nàng, không cần hỏi”.
Thần Niên nghiêng đầu ngó hắn, rồi lại bất chợt nở nụ cười, chắp tay sau lưng, loẹt quẹt bước đi, nói: “Lục Kiêu, ta thật sự rất thích huynh, là kiểu thích không nói nên lời ấy. Ta không biết huynh có hiểu được không, nhưng rõ ràng mới quen biết huynh chưa được bao lâu, lại cảm thấy chúng ta phải lớn lên bên nhau từ nhỏ mới đúng, chúng ta đều từng thấy dáng vẻ không có tiền đồ nhất của đối phương, ở gần nhau không có gì phải băn khoăn cả. Ta dám bảo huynh anh dũng xông pha phía trước vì ta, và cũng dám yên tâm giao phía sau lưng mình cho huynh”.
Lục Kiêu nghe thế mỉm cười nói: “Nàng chưa từng nhìn thấy dáng vẻ không có tiền đồ nhất của ta”.
Thần Niên gật đầu đáp: “Đúng thế, chỉ gọi huynh đến xem dáng vẻ không có tiền đồ của ta thôi”.
Lục Kiêu nghe thế bèn dừng bước, nhìn nàng một chút, chân thành nói: “Tạ Thần Niên, nàng đã làm rất tốt. Nàng nhìn bách tính dưới chân núi đi, là nàng cho bọn họ một nơi sinh sống, một cơ hội để sau này sống càng tốt hơn, bọn họ đều rất biết ơn nàng”.
Thần Niên cười cười, nhảy lên một khối đá ven đường nhìn ra xa đằng chân núi, sau một lúc lâu, nhẹ nhàng nói: “Là ta nên biết ơn họ mới đúng. Tình cảnh ấy gợi cho ta cảm giác như mình vẫn còn sống ở Thanh Phong trại. Nhìn những nhà đó ở trại ngoài, ta sẽ cảm thấy như mấy người thím Nghiêm đều còn sống, chẳng qua không biết ở nhà nào thôi. Mà những đứa trẻ đang cười đùa đuổi bắt kia chính là Tiểu Thất, Tiểu Liễu của ngày xưa, cả ta nữa...”.
Nàng nhắm mắt, ngửa đầu lên bầu trời, nghe tiếng cười vọng vang trong gió, mắt dần trở nên ướt nhòe: “Huynh nghe, tất cả đều còn sống”.
Chẳng biết vì sao trong lòng Lục Kiêu đột nhiên lóe lên một suy nghĩ, dường như Thần Niên ngay sau đó sẽ thả người nhảy xuống núi, trong lòng hắn kinh hoảng, vội nhảy lên khối đá, mau mắn đứng bên cạnh Thần Niên, kêu: “Tạ Thần Niên!”.
Thần Niên mở mắt ra, ngoái đầu nhìn hắn, đôi mắt được nước gột rửa trong vắt, nàng cười nói: “Ta không sao, chỉ là đột nhiên thấy nhớ mọi người”.
EFF----EFF
Trên không bỗng nhiên truyền đến tiếng ưng kêu, hai người họ nhìn theo tiếng kêu, chỉ thấy trên bầu trời có hai con chim ưng bay lượn xung quanh, giống như đang truy đuổi, lại giống như đang chơi đùa. Thần Niên hơi nheo mắt lại, nhìn một lát, chợt nói: “Lục Kiêu, huynh nên rời khỏi đây”.
Nàng ngoái lại nhìn Lục Kiêu: “Huynh là hùng ưng sải cánh trên thảo nguyên, không nên bị giam hãm ở đây”.
Lục Kiêu nhếch mép cười, nói: “Tạ Thần Niên, nhiệm vụ hiện tại của ta chính là bảo vệ nàng”.
“Ta hiện giờ đã không cần sự bảo vệ của huynh nữa.” Thần Niên nhìn hắn chăm chú, nghiêm túc nói: “Huynh cũng nên biết ta theo sư phụ luyện Ngũ Uẩn thần công, hiện tại mặc dù không dám nói là tuyệt đỉnh, nhưng cũng đã đủ để tự bảo vệ mình”.
Lục Kiêu lặng thinh nhìn nàng, trầm mặc không nói.
Thần Niên mỉm cười, ngẩng đầu tiếp tục nhìn theo cánh ưng trên nền trời: “Đi đi, Lục Kiêu, đến với bầu trời của huynh đi. Ta cũng sẽ dang cánh, dùng toàn lực của ta bay lên cao. Nếu có một ngày, chúng ta còn có thể gặp gỡ giữa vòm không, chúng ta sẽ giống như đôi ưng này, bầu bạn chao lượn”.
Lục Kiêu nhìn nàng hồi lâu, cuối cùng chậm rãi gật đầu, đáp: “Được, Tạ Thần Niên”.
Ba ngày sau, Lục Kiêu một mình rời khỏi đỉnh Hổ Khẩu. Lúc hắn đi, Thần Niên đang bàn bạc với Thôi Tập, Chu Chấn xem nên huấn luyện trai tráng được lựa ra từ số dân lưu lạc ở trại ngoài ra sao, không đi đưa tiễn. Nhưng lại có Linh Tước yên lặng đi theo sau ngựa của Lục Kiêu, đưa ra ngoài thật xa. Lục Kiêu dừng bước ngoái đầu lại mấy lần, mặt mày hớn hở nói với cô: “Cô về đi, không cần tiễn ta, cũng có phải ta không biết đường đâu”.
Mắt Linh Tước đỏ hoe, lại nói thêm lần nữa: “Huynh đi thế này, trong lòng đại đương gia nhất định rất khó chịu”.
Lục Kiêu nhìn cô, nói: “Là nàng bảo ta đi”.
“Lời đại đương gia nói nhất định không phải lời thật lòng!” Linh Tước kêu lên, lườm Lục Kiêu, “Ta nói huynh ngốc, thế mà hóa ra huynh ngốc thật! Con gái thích nhất là nói ngược lại lòng mình, ngoài miệng cô ấy bảo huynh đi, trong lòng nhất định là không muốn huynh đi”.
Thấy cô như vây, Lục Kiêu lại không nhịn được nhếch mép cười, bảo: “Cô có phải con gái không?”.
Linh Tước bị hắn hỏi mà sững người, bực dọc nói: “Nói nhảm! Ta đương nhiên là con gái nên mới hiểu suy nghĩ của đại đương gia hơn huynh!”.
Lục Kiêu liền cười nói: “Nếu cô cũng là con gái, vậy cô cũng thích nghĩ một đằng nói một nẻo. Ngoài miệng cô bảo ta ngốc, trong lòng lại cảm thấy ta rất thông minh, đúng chứ?”.
Linh Tước bị hắn hỏi mà á khẩu không trả lời được, nhất thời không biết là bực hay giận, chỉ há hốc miệng không nói nên lời.
Lục Kiêu bật cười, nghiêm túc nói với cô: “Linh Tước, cô không hiểu, bây giờ ta nên đi rồi. Những điều hiện tại ta có thể cho Tạ Thần Niên thì nàng đã không cần, mà thứ nàng cần thì hiện tại ta lại không thể cho nàng. Cho nên ta phải đi, đi giành lấy thứ nàng cần để mang về cho nàng”.
Linh Tước láng máng cảm thấy hắn nói cũng có lý, nhưng lại không rõ cái lý đó nằm ở đâu. Khi nàng còn ngây người, Lục Kiêu đã xoay người lên ngựa, ngoảnh đầu lại cười với cô, nói một tiếng “Bảo trọng” rồi phóng ngựa vút về phương xa.
Thần Niên đợi ở trại ngoài đến khi trời xẩm tối mới trở về, đi vào cửa trại trong, vừa đi vừa nói với người bên cạnh: “Lục Kiêu, chúng ta đi ăn cơm trước rồi đến thăm sư phụ ta”.
Người bên cạnh khựng lại một chút rồi mới đáp: “Được”.
Thần Niên nghe giọng nói đượm vẻ kinh ngạc, quay đầu lại nhìn Thôi Tập một cái, cười bảo: “Ta nhất thời quen miệng, còn tưởng là Lục Kiêu ở bên cạnh”.
Thôi Tập lại chỉ cười mỉm, chuyển đề tài sang việc khác: “Mậu Nhi dạo gần đây nói được nhiều lắm rồi, hết sức dễ thương, nhưng bón cơm lại rất khó, không như lúc trước đút gì ăn nấy”.
Thần Niên bất giác nhớ lại mùa đông năm kia khi mới gặp mấy người Thôi Tập, lúc đó Mâu Nhi cùng lắm mới mười mấy tháng tuổi, nhưng lại ngoan ngoãn vô cùng, dù là cháo gạo cũng ăn rất ngon miệng. Nàng không khỏi mỉm cười, nói: “Đi, chúng ta đến ăn cơm với Mậu Nhi, ta bón cho con bé, trước kia ta cũng giúp người ta dỗ trẻ con rồi, biết đâu lại trêu cho nó thích thì sao”.
Thôi Tập cũng cười, đẫn Thần Niên về nơi mình ở, cùng ăn cơm với Mậu Nhi. Mậu Nhi đã hơn hai tuổi, tuy nói được nhiều nhưng phát âm lại không rõ, phải nhờ Thôi Tập ở bên cạnh nói lại, Thần Niên mới hiểu hết ý của con bé.
Ba người cùng ngồi bên bàn ồn ã ăn xong bữa tối, Thần Niên mới từ biệt để đến chỗ Tịnh Vũ Hiên. Người còn chưa vào cửa đã nghe Tịnh Vũ Hiên ở trong phòng nóng nảy kêu lên: “Tâm bình dị, tâm bình dị, ta cũng biết tâm bình dị, nhưng tâm bình dị phải làm như thế nào mới có được?”
Thần Niên thoáng dừng chân, vén mành bước vào, chào một tiếng sư phụ trước rồi mới chào lão hòa thượng Tuệ Minh, nói: “Đại sư lại đang nói Phật pháp với sư phụ ta?”.
Nét mặt Tuệ Minh vẫn rất ôn tồn, không vội không hoảng đáp: “Tịnh thí chủ cần tìm cái tâm bình dị”.
Thần Niên không kìm được, hỏi: “Làm thế nào để học được cái tâm bình dị?”.
Tuệ Minh nói: “Tâm bình dị tức là đạo, bất cứ cách gì có thể nhập đạo thì dùng cách đó để học. Khi Sơ tổ Đạt ma truyền pháp cho Nhị tổ Tuệ Khả đã nói: “Ngoài dứt trần duyên, trong không gấp gáp, tâm như tường vách, có thể nhập đạo”.
Tịnh Vũ Hiên vừa nghe liền nhíu mày, lập tức chỉ vào Tuệ Minh nói với Thần Niên: “Nghe đi, lại nữa lại nữa, lão nương vừa nghe lão nói đến cái này liền nhức não. Thôi dẹp, dẹp đi, hôm nay ta không học nữa, ngươi đi mau lên”.
Thần Niên mỉm cười, mời Tuệ Minh ra cửa, cười nói: “Đại sư, ta tiễn ngài về”.
Tuệ Minh niệm A di đà Phật, khách khí cáo từ Tịnh Vũ Hiên rồi mới theo Thần Niên ra của. Hai người im lặng đi được một đoạn, Thần Niên bỗng hỏi Tuệ Minh: “Đại sư, Phật pháp nói ngũ uẩn giai không, ngũ uẩn thật sự là trống không sao?”.
Tuệ Minh hỏi nàng: “Có biết thế nào là ngũ uẩn không?”
Thần Niên vì luyện thần công kia nên cố tình đi tìm một ít kinh Phật về đọc, nghe vậy gật đầu.
Tuệ Minh lại hỏi nàng: “Có biết tám cái khổ của đời người không?”.
“Sinh, lão, bệnh, tử, yêu ly biệt, mong không được...” Thần Niên chỉ biết vài cái, lại chẳng thể đáp đầy đủ.
Tuệ Minh bèn chậm rãi nói: “Sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, yêu mà phải biệt ly là khổ, mong muốn mà không được là khổ, không thích mà gặp phải là khổ, ngũ âm bùng phát là khổ. Ngũ âm tức là ngũ uẩn, ngũ uẩn tích tụ thành thân thể, hừng hực như lửa, bảy cái khổ trước đều sinh ra do cái này”.
“Bảy cái khổ trước đều sinh ra do cái này?” Thần Niên nhỏ giọng lặp lại.
Tuệ Minh nhìn nàng, trong mắt đượm vẻ thương xót, nói nhẹ: “Đích xác của ngũ uẩn là vô thường, khổ, không và vô ngã. Người vô ngã, pháp vô ngã”.
Thần Niên lặng đi một lát, nói: “Đại sư, những điều này quá khó rồi”.
Tuệ Minh cũng cười theo, nói: “Hết thảy đều là duyên, không do chúng ta khống chế chi phối, nên cứ tùy tâm là được”.
Thần Niên không khỏi hỏi: “Nếu nói như vậy, Ngũ Uẩn thần công được coi là gì?”.
“Tu hành”, Tuệ Minh thong thả nói, “Mọi thứ đều là tu hành. Trọn một kiếp người không dễ dàng, càng nên vứt bỏ lại phiền não, tiến về phía trước”.
Thần Niên dừng bước, cân nhắc rất lâu, lại bất chợt nở nụ cười, nói: “Đại sư, trước kia ta vẫn cảm thấy ngài đến vì sự sai khiến của Vân Tây Vương, giờ nhìn lại, không phải”.
Tuệ Minh cười nói: “Không vì cô, cũng không vì hắn, lão hòa thượng đến vì chính mình”.
Thần Niên chỉnh trang y phục, chắp tay bái lạy lão hòa thượng, trịnh trọng nói: “Đa tạ đại sư chỉ vẽ bến mê”.
Tháng Năm năm Vĩnh Ninh thứ tư, Vân Tây vương Phong Quân Dương đích thân đến Giang Bắc, tiến hành đàm phán hòa giải ba nhà Trương, Hạ, Tiết, với ý đồ bình ổn cuộc hỗn chiến ở Giang Bắc.
Cùng lúc đó, chư vương họ Tề vì tranh giành quyền lực trong triều, lại bắt đầu huynh đệ tương tàn, vả lại so với lần trước chỉ có hơn chứ không có kém. Hoài Vương Tề Giáo dẫn binh đánh thẳng vào Thịnh Đô, giết chết Kinh vương Tề Thâm vốn đang phụ chính, thao túng triều chính. Mấy vương gia họ Tề khác thấy thế cũng không cam chịu yếu thế, lại khởi binh tấn công Thịnh Đô. Hoài vương khó địch lại đông người, mượn danh ngự giá thân chinh, uy hiếp hoàng đế hoàng hậu rời khỏi Thịnh Đô về phía Đông, mưu đồ trở về thái ấp. Đi được nửa đường gặp đại quân của Hải vương ngăn lại, trong trận hỗn chiến, hoàng đế dính tên bắn bị thương, hoàn toàn dựa vào sự bảo vệ chặt chẽ của những người bên cạnh mới trốn được đến thành nhỏ Lưu Lương ở sườn Bắc.
Phong hậu vốn đã mang thai, trải qua biến cố này liền sinh non ở thành Lưu Lương, đặt tên là “Hạnh”, lập làm thái tử. Bảy ngày sau, hoàng đế trúng tên không khỏi qua đời, hoàng thái tử Tề Hạnh vội vã đăng cơ trong thành Lưu Lương, cải nguyên hiệu Tân Võ, tôn Phong thị làm thái hậu.
Thành Lưu Lương cố thủ chặt chẽ, dùng ba nghìn yếu binh trong tay cự lại đại quân của Hải vương ở ngoại thành hai mươi ba ngày, cuối cùng chờ được đại quân Vân Tây tới cứu.