Trong thành Trịnh Châu, một chỗ bên cạnh hồ nước, tầng trong tầng ngoài đều bị cư dân phụ cận vây quanh.
Bọn họ không dám tới gần, chỉ đứng xa xa, thò đầu ra xem náo nhiệt.
Trong hồ nước có một thi thể nam nhân không đầu được vớt ra, người phát hiện thi thể đang mặt mày ủ dột giải thích tình hình với các nha dịch.
Thi thể này không biết đã ngâm trong hồ bao lâu, toàn thân trương phình, tanh hôi không chịu nổi.
Vừa vớt lên, người đánh cá đã sợ tới mức tè ra quần.
Thừa lại, cấp dưới của Quận thừa Trịnh Châu là Đặng Án, đang không hề e dè ngồi xổm bên cạnh cỗ thi thể kia, thậm chí mang theo vẻ hào hứng, cẩn thận xem xét hủ thi [1] mà người khác tránh không kịp này.
[1] hủ thi: thi thể mục rữa, thối nát.
Đầu của thi thể bị người cắt xuống, gãy lìa.
Sọ người không hề dễ chặt đứt chút nào, rất có khả năng hung thủ có võ nghệ cao siêu, lực tay mạnh mẽ.
Đặng Án vừa lật xem thi thể, vừa suy tư.
“Đặng thừa lại, ta đang tìm huynh đấy.” Hà Hựu cùng là cấp dưới của Quận thừa như Đặng Án, đang vội vàng chạy đến.
Đột nhiên nhìn thấy một hủ thi, Hà Hựu giật cả mình.
“Đừng làm, đừng làm nữa. Quận trưởng đại nhân khẩn cấp chiếu lệnh cho toàn bộ của quận trưởng, lại sở [2] đến Quận sở nghị sự.” Hắn giơ tay áo ngăn trở con mắt nói.
[2] trưởng, lại: đều là chức quan; lại: ý chỉ là chức nhỏ không có thực quyền.
“Đợi một lát.” Đặng Án không nhanh không chậm đáp.
Hà Hựu túm lấy tay áo của hắn kéo đi: “Quận trưởng đại nhân triệu hồi, sao có thể chờ được, trước tiên gác những án này lại đã, huynh còn thấy ấn tượng về mình trong mắt hai vị đại nhân Quận trưởng cùng Quận thừa chưa đủ tồi tệ sao?”
Đặng Án bất đắc dĩ bị túm lên xe ngựa, hắn vừa vén rèm xe lên vừa nhìn quanh hồ nước, nói: “Rốt cuộc có chuyện gì mà khẩn cấp như vậy, Chúa công đã về Biện Kinh rồi, Trịnh Châu ta còn có thể có chuyện gì gấp, cần tụ tập toàn bộ quan viên tham thảo?”
“Chúa công ban chính lệnh từ Biện Kinh, yêu cầu tất cả thiết lập giáo dục tại quận, cũng muốn khuyến khích hạt mở trường tư thục. Biện Kinh sẽ cử hành đại khảo định kỳ, khảo tra tất cả những người tài được quận huyện tuyển chọn, lựa ra người ưu tú cho làm quan.” Hà Hựu hưng phấn nói: “Đến lúc đó số học sinh từng quận đề cử lên sẽ trở thành một trong những chỉ tiêu để đánh giá Quận trưởng đại nhân vào cuối năm, huynh nói Quận trưởng đại nhân có gấp hay không?”
Trịnh Châu trở thành quận mới của Tấn quốc không lâu, Quận trưởng và Quận thừa đều nóng lòng lấy được một cái thành tích tốt vào “Thượng ký” [3] mỗi năm một lần để tạo ấn tượng tốt với Chúa công, cho nên đối với việc ảnh hưởng đến đánh giá cuối năm này họ vô cùng xem trọng.
[3] Thượng ký: chỉ thu nhập của các cấp quan phủ như về đất cày tăng hay giảm, hộ khẩu nhiều hay ít, báo cáo về tình huống thiên tai, trị an xã hội làm tiền đề trở thành những điểm cho trung ương đánh giá địa phương này, bắt nguồn từ thời Tần quốc. Đến Tây Hán, họ đã thiết lập quan viên ghi chép, chịu trách nhiệm “thượng ký”.
Hà Hựu là chủ bộ [4], hiện tại đang thiếu quan văn, chuyện này rất có thể rơi xuống người hắn, đúng là cơ hội để hắn thể hiện lập công.
[4] chủ bộ: là chức vụ tá lại (thuộc hạ của thượng cấp, ngày nay được hiểu là cấp dưới trực tiếp của các giám sát hoặc quản lý lãnh đạo nòng cốt) chưởng quản công văn.
Đặng Án chẳng mấy hào hứng: “Ta chỉ là tiểu lại hình ngục phụ trách tố tụng, việc này đâu liên quan gì đến ta, ta còn đang bận tra án đấy.”
“Sao lại không liên quan gì đến huynh, trong tân chính của Chúa công nêu rõ, thượng ký cuối năm, bách quan tự trị, đương tắc khả, bất đương tắc phế (được thì cho làm, không được thì loại bỏ). ‘Trị’ở đây đã bao hàm cả các trinh án, bắt đạo phỉ của hình ngục, thu thuế vụ, huấn luyện binh lính, còn có thành quả của nền giáo dục cấp quận mới ra này nữa.”
Hà Hựu phấn chấn vỗ vỗ bả vai vị hảo hữu không có sở trưởng về giao tiếp với thượng cấp này của mình: “Án quân [5], huynh giỏi về phá án, sau này chắc hẳn các đại nhân sẽ cần trông cậy vào tài hoa của huynh, sẽ không bài xích huynh như trước nữa đâu.”
[5] quân: quân có thể hiểu theo hai nghĩa, một là người cai trị tối cao ở một đất nước (quân chủ), hai là lời chào để gọi nhau hằng ngày. Ở đây, quân được hiểu là lời gọi nhau hằng ngày.
Đặng Án không có hứng thú với chính vụ, hắn chỉ hy vọng chính sách mới có thể giúp hắn trong lúc phá án giảm bớt một đám thượng cấp tới quấy nhiễu, giúp hắn có thể phát huy năng lực thật sự của mình.
Hà Hựu vô cùng kính phục tân Chúa công ngày nay của Trịnh Châu: “Án quân, mấy ngày Chúa công ở Trịnh Châu, huynh có từng gặp mặt Chúa công chưa? Đáng tiếc ta chức vị thấp kém, vô duyên chiêm ngưỡng được phong tư của Chúa công, quả thật tiếc nuối.”
“Ta cũng chưa từng gặp Chúa công, nhưng có trông thấy Chu đại nhân – vị đã biên soạn ‘Tấn luật’”. Đặng Án nói: “Vị đại nhân kia tuy đi đứng không tiện, nhưng thường xuyên giá lâm quận huyện nha sở để thảo luận cùng tiểu lại chúng ta về việc áp dụng luật mới. Thật sự là một vị đại nhân làm người tôn kính. Chúa công có thể được hiền thần như vậy phụ tá, chắc là một vị minh quân hiếm có.”
Tại Định Đào phía nam Biện Kinh, trong một căn nhà hai gian bình thường, một văn sĩ trẻ đang ung dung cầm một quyển sách, dạy vài đứa trẻ đọc sách.
Định Đào vốn là đất đai thuộc Tống quốc, năm ngoái bởi vì đại tướng quân Tấn quốc Mặc Kiều Sinh lãnh binh xâm lấn, buộc Tống Tương công dời đô đến Bành Thành.
Tống Tương công lấy vài quận huyện ở bắc bộ kẹp giữa Tấn quốc và Vệ Quốc, chủ động cắt nhường cho Tấn quốc.
Định Đào vốn là mảnh đất giàu có và đông đúc, văn nhân sĩ tử hội tụ, ở đây những gia đình khá giả cũng thường xuyên gửi con đến học quán học cho biết chữ.
Vì thế, trường tư thục trong thành tương tự vậy cũng không ít.
“Bác Văn quân, Bác Văn quân.” Một văn sĩ trẻ khác kêu lên ở ngoài cửa, đúng là Lý Khuyết – hảo hữu của phu tử Đổng Bác Văn.
Đổng Bác Văn nói với học trò vài câu, đi ra khỏi học đường, dẫn hảo hữu ngồi trên thiên thất [6].
[6] thiên thất: là căn phòng hoặc buồng bên cạnh hoặc sát gian nhà chính.
“Khuyết quân có gì mà vui vẻ thế?” Đổng Bác Văn pha trà đãi khách.
“Bác Văn, huynh nghe gì chưa?” Lý Khuyết hưng phấn nói: “Tấn Việt hầu ban bố tân chính, thiết lập quận học, sáng lập tư thục, mở khoa chọn người tài! Học trò bình dân như ta và huynh sẽ có cơ hội vào triều làm quan đấy.”
Đổng Bác Văn lấy làm kinh hãi: “Chuyện đó là thật?”
“Đương nhiên là thật, hôm nay bố cáo được dán ở cửa chính quận sở rồi. Trong quận bắt đầu lập quận học, học tử trong quận có thể tham dự khảo hạch nhằm chọn lựa ra người ưu tú. Học giả thi đậu quận chẳng những có thể thoát thuế, mỗi tháng còn có thể nhận được vài thạch kèm theo gia dụng nữa. Tuy nhiên cũng không dễ thi vào, toàn quận chỉ chọn ra ba mươi người. Nhưng tài cao như Bác Văn quân vậy, được chọn là chuyện hiển nhiên.”
Đổng Bác Văn trầm tư một lát: “Cái này thật sự khiến ta bất ngờ. Lúc trước, thấy vị tân chủ quân này của chúng ta phổ biến chế độ quân công thụ tước, ta nghĩ hắn là một người tàn nhẫn rất thích tranh đấu, chỉ một lòng muốn mở rộng bờ cõi. Trái lại, ta không thể ngờ được người này còn nhìn xa trông rộng như vậy.”
“Đây chính là tiến hành tiến dân đức, khai dân trí đó.” Lý Khuyết kích động mặt ửng hồng, cố hạ thấp giọng trước mặt hảo hữu: “Nói thật, ta cảm thấy vị tân Chúa công này mạnh hơn nhiều so với Tống Tương công, Định Đào chúng ta bị cắt nhường cho Tấn quốc, ngược lại cũng không phải là chuyện gì xấu đối với dân chúng Định Đào.”
Đổng Bác Văn nheo đôi mắt lại: “Hành động lần này của Chúa công không chỉ là vì mở rộng dân trí mà còn muốn cho đệ tử hàn môn vào triều làm quan, đánh vỡ lũng đoạn triều đình của thế gia quý tộc. Khuyết quân, huynh nói đúng, chúng ta có thể trở thành con dân của một vị Quân chủ như vậy, quả thực là một chuyện may mắn.”
Những cuộc trò chuyện tương tự, liên tiếp vang lên khắp quốc thổ Tấn quốc.
Trình Thiên Diệp – người được ca ngợi vì chính lệnh này còn chưa biết một đạo chính lệnh của nàng đã nhấc lên bao nhiêu cơn sóng trên các nơi trong cả nước.
Nàng đã về tới Biện Kinh, đang ngồi trong Triều Ngô điện, vẫy tay với “nhi tử” hai tuổi Trình Bằng: “Bằng nhi, đến đây nào.”
Tiểu bao tử hơn hai tuổi níu chặt ống tay áo của mẫu thân Hứa phi.
Từ khi bé ra đời đến nay, thời gian ở cùng phụ thân thật sự rất ít.
Bé nhìn nam tử trẻ tuổi tuấn lãng trước mắt, vừa quấn quýt vừa hồi hộp, chần chừ không dám tiến lên.
Đến khi mẫu thân khẽ đẩy nhẹ sau lưng bé, bé mới cố lấy dũng khí đi thẳng về phía trước, duỗi bàn tay nhỏ bé mũm mỉm ra, đoan chính hành lễ, khuôn mặt nhỏ nhắn đỏ lên, gọi: “Quân phụ.”
Trình Thiên Diệp bế bé lên, đặt trên đầu gối của mình, nhấc bút chấm mực, ghi một từ Thiên trên tờ giấy trắng, sau đó là một từ Vũ.
“Bằng nhi biết chữ chưa? Ta dạy cho con nhé.“ Trình Thiên Diệp chỉ vào chữ trên bàn, thì thầm: “Từ này đọc là Thiên, từ này đọc là Vũ, là danh tự của phụ thân. Nào, con đọc lại theo ta, Thiên, Vũ.”
Tiếng trẻ con bập bẹ vang lên trong Triều Ngô điện.
Hứa phi nghiêng mặt qua, lặng lẽ dùng ống tay áo lau đi giọt lệ nơi khóe mắt.
Cho tới bây giờ, trên thế giới này, người tưởng niệm vị phu quân chân chính kia của nàng, ngoại trừ nàng, cũng chỉ có công chúa và Thái phu nhân mà thôi.
Lúc A Giáp tiến vào, trông thấy Trình Thiên Diệp đang dạy Trình Bằng nhận biết tên của bé: “Từ Bằng, chính là lấy từ ý Bằng trình vạn lý, sau này quốc thổ Đại Tấn chúng ta càng lúc càng lớn, Bằng nhi sẽ tựa như đại bàng giương cánh, thủ hộ cho quốc gia của chúng ta.”
Trình Bằng ngồi trên đùi phụ thân, đôi mắt sáng lóng lánh, nghe phụ thân thuật rõ tâm nguyện ẩn chứa trong cái tên đặt cho bé.
Thấy A Giáp vào, Trình Thiên Diệp ôm nhi tử xuống khỏi chân, bảo Hứa phi dẫn bé về.
Nàng tiếp nhận tấu chương A Giáp đưa tới, phê duyệt.
“Chúa... Chúa công.” A Giáp ấp a ấp úng.
“Nói đi.” Trình Thiên Diệp không ngẩng đầu lên.
A Giáp xoắn xuýt nói: “Chu đại nhân đã đặt tên cho Ám kia, theo họ Chu đại nhân Chu, đặt là Chu Minh.”
Trình Thiên Diệp nhướng mày, nhìn về phía A Giáp.
“Cho nên?”
Sắc mặt A Giáp hơi đỏ, nửa ngày không nói nên lời, chỉ nhìn tờ giấy viết tên trên bàn mà Trình Thiên Diệp vừa mới dạy Trình Bằng.
Trình Thiên Diệp cười ha ha, lấy ra một tờ giấy trắng, nhấc bút: “Ừm, vậy ta cũng đặt cho cô một cái tên. Cô muốn lấy họ gì? Nếu theo họ Trình ta thì cô muốn lấy tên gì?”
“Ty chức... Khi còn nhỏ, ta còn lờ mờ nhớ rõ mình họ Hạ.”
Trình Thiên Diệp ngẫm nghĩ, hạ bút đoan chính viết hai từ: “Phương phỉ hiết khứ hà tu hận, hạ mộc âm dương chính khả nhân [7]. Hiện tại đúng lúc là ngày mùa hè, ngươi lại họ Hạ, vậy đặt là Hạ Phỉ nhé.”
[7] Trích trong bài thơ “Tam nguyệt hối nhật ngẫu đề” của nhà thơ Tần Quan thời Bắc Tống. (Dịch theo editor =.= ý 2 câu này là: Hoa thơm héo tàn nào đáng hận? Hạ đến xanh non động lòng người.)
Nàng lấy ra một miếng phỉ thúy xinh đẹp trong ngăn kéo, đặt cùng chỗ với tờ giấy có viết từ “Phỉ”, đưa cho thiếu nữ bên cạnh.
“Thơm và xanh [8], Hạ Phỉ, trong mắt ta cô xinh đẹp tựa như phỉ thúy vậy.”
[8] thơm (菲) và xanh (翡): hai chữ này viết khác nhau nhưng đồng âm, đều đọc là (fei). Chữ “thơm” nữ chính lấy trong câu thơ trên và chữ “xanh” (phỉ) lấy trong từ “phỉ thúy”.
Lúc Trương Phức đi đến Triều Ngô điện, đúng lúc bắt gặp Hạ Phỉ đang ngây ngẩn ở hành lang ngoài điện.
Tử thị xưa nay lạnh lùng nọ, hai tay đang cầm một tờ giấy mỏng, trên giấy là một viên phỉ thúy màu xanh lục.
Nàng cúi đầu ngắm nhìn viên bảo thạch rực rỡ dưới ánh mặt trời mùa hạ, lộ ra biểu cảm mà Trương Phức chưa bao giờ thấy qua.
“A Giáp, sao vậy?” Trương Phức hỏi.
Hạ Phỉ hoàn hồn, ngẩng đầu nhìn Trương Phức, dưới ánh mặt trời nàng khẽ mỉm cười: “Trương đại nhân, từ nay về sau ta không còn tên A Giáp nữa, Chúa công đã đặt tên cho ta rồi, là Hạ Phỉ.”
Trương Phức vào Triều Ngô điện, Trình Thiên Diệp đang đọc chiến báo Mặc Kiều Sinh gửi về từ tiền tuyến.
Mặc Kiều Sinh dẫn hai mươi vạn đại quân, vượt qua Tần Lĩnh, tiến về Hán Trung của Hàn Toàn Lâm.
Hàn Toàn Lâm vừa tức vừa rối, như lâm đại địch, tự mình dẫn quân chống đỡ.
“Trương đại nhân, ngươi xem, lại là tin chiến thắng, cho đến bây giờ Kiều Sinh chưa từng làm ta thất vọng.” Trình Thiên Diệp hưng phấn đưa quân báo tới.
Trương Phức lại không vui mừng như Trình Thiên Diệp, y im lặng một lát, rồi nói: “Chúa công, Mặc Tướng quân chiến công hiển hách, có phải nên phong thưởng?”
“Đương nhiên.“ Trình Thiên Diệp nói: “Dựa theo quân công, hắn nên được thăng đến tước Đại thượng tạo bậc thứ mười sáu rồi.”
“Nếu hắn thật sự chiếm được Hán Trung thì sao?”
“Vậy thì cho hắn lên làm Hầu, Quan nội hầu chứ sao.”
Trương Phức hành lễ: “Dựa theo tốc độ lập công của Mặc Tướng quân, luôn không thể một ngày không phong.”
Trình Thiên Diệp ngồi ngay ngắn, nàng nhìn Trương Phức, nhận ra ẩn ý trong lời của y: “Trương đại nhân trong lòng có gì nghi kị, xin cứ nói thẳng.”
Trương Phức bất đắc dĩ thở dài, hành lễ, nói rõ: “Chúa công, gần đây lãnh thổ Tấn quốc chúng ta khuếch trương, nhân khẩu tăng nhiều, binh lực gấp mười lần so với hai năm trước. Hôm nay nhân số toàn sĩ ngũ cộng lại là bốn mươi vạn có thừa. Nhưng chỉ riêng Phong Đô, Mặc Tướng quân đã dẫn đến hai mươi vạn quân mã.”
Y nghiêm túc nhìn Trình Thiên Diệp: “Hơn nữa, theo tình hình chiến tranh kéo dài, binh mã của hắn sẽ không ngừng tăng thêm, hắn chiếm cứ các thành quách xung quanh Phong Đô, thậm chí không cần chúng ta cung cấp lương thảo, lại có thể độc lập khai chiến với Hàn Toàn Lâm.”
“Chúa công, ta biết rõ ngài tin tưởng Mặc Tướng quân, nhưng là một quân chủ, ngài không thể đặt vận mệnh quốc gia nương nhờ vào hai từ tin tưởng này được.”
“Ý của ngươi ta hiểu.” Trình Thiên Diệp nhìn Trương Phức: “Ta sẽ suy nghĩ lời ngươi nói. Nhưng trong lòng ta đã có quyết định, cũng xin ngươi tin tưởng phán đoán của ta.”
Trương Phức không nói nữa, cúi đầu cáo lui.
Trình Thiên Diệp thở dài, lấy một phong thư riêng mà Mặc Kiều Sinh bí mật gửi theo chiến báo cho nàng, chậm rãi mở ra, đọc lên.
Chữ viết ngay ngắn ghi chép từng ly từng tý về cuộc sống nơi tiền tuyến, giữa những hàng chữ, lộ ra ý tương tư của người viết thư.
Ở dòng cuối cùng là một hàng chữ cực nhỏ, xem như đáp lại những lời trong bức thư trước đó của Trình Thiên Diệp:
Chỉ cần Chúa công thích, có làm đau ta cũng... không sao.
Trình Thiên Diệp cắn môi: Người này học được cách quyến rũ người khác rồi.
Quản cái khỉ gì mà phong hay không thể phong, chờ đến khi hắn không còn đường để phong nữa, ta sẽ gả công chúa cho hắn.