“Không thấy thi thể thiếu niên câm đâu,” lời này vừa ra mọi người đã lập tức nhìn nàng thế là Tống Mê Điệt liếm môi và nói tiếp, “Càng kỳ quái hơn là bài vị của Tôn Dần cũng được đặt trên bàn thờ, bên trên viết ‘chồng của Hoa đèn bà bà’ giống những người khác.”
“Kẻ kia lại quay về lấy thi thể và đặt bài vị,” Lưu Trường Ương cắn răng nói ra một câu này sau đó cười lạnh, “Đúng là to gan, dám mạo hiểm dưới mí mắt của bổn vương.”
Vừa mới nói xong hắn đã nghe thấy Uất Trì Thanh ở bên cạnh hít hà một hơi và che mắt cá chân của mình thế là liếc mắt hỏi, “A Thanh, ngươi bị thương sao?”
Uất Trì Thanh xoa mồ hôi lạnh trên đầu và nói, “Vì lên đường quá gấp nên thuộc hạ không cẩn thận bị con ngựa này ném xuống.”
Thấy ba người Tống Mê Điệt đã đi xa Lưu Trường Ương mới ngồi xổm xuống bên cạnh hắn và vỗ vỗ lưng, “Được rồi, đừng giả vờ nữa, bọn họ bỏ đi xa rồi, hiện tại nói gì thì nói đi.”
Uất Trì Thanh nhanh nhẹn đứng lên và liếc mắt về phía sau một cái mới chắp tay nói, “Điện hạ, thuộc hạ đã dựa theo lệnh…… lệnh của ngài và thả cá đi.”
Nói tới đây hắn cúi đầu bẻ bẻ đầu ngón tay, “Như thế tính… tính ra thì qua 4-
5 ngày là cá kia sẽ đến…… đến Trường Lăng.”
Lưu Trường Ương hơi gật đầu một cái và ngước mắt. Ánh mắt hắn xuyên qua cành lá khô trên đầu và nhìn bầu trời cao trong xanh. Hắn dừng lại một lát mới
nhìn về phía Uất Trì Thanh, giữa mày toàn là mây đen, “A Thanh, Chử Ngọc rơi vào tay một kẻ mất nhân tính như thế chỉ sợ dữ nhiều lành ít.”
Uất Trì Thanh nắm chặt nắm tay, mắt lộ ra hung dữ và gằn giọng nói, “Điện hạ yên tâm, A Thanh này dù…… dù đánh cuộc cả mạng cũng phải cứu được Chử
Ngọc.”
Lưu Trường Ương nhìn hắn một lúc và nhẹ nhàng nói ra ba chữ, “Ta tin ngươi.”
Nói xong hắn lên ngựa, tay vung roi chuẩn bị lên đường. Nhưng chưa kịp hét to hắn đã lại quay đầu nhìn về phía Uất Trì Thanh vừa mới lên ngựa và nhẹ nhíu mày, “A Thanh, ngươi kết giao với nhiều người trên giang hồ liệu có từng gặp hoặc nghe tới một hình xăm đầu rắn không?”
Uất Trì Thanh sửng sốt, “Hình xăm đầu rắn ư?”
Ánh mắt Lưu Trường Ương rũ xuống, trong đầu nhớ tới hình ảnh mờ nhạt nhìn thấy ngày đó. Nó ở trên ngực Tống Mê Điệt, ẩn dưới lớp quần áo ướt đẫm nên hắn chỉ thấy được hình dáng mơ hồ, “Nó to bằng ngón tay cái thôi nhưng quả thực là rắn. Ta có thể nhìn thấy cái cổ nó ngỏng lên, lưỡi phun ra, nhìn tuy tinh xảo nhưng hung mãnh và uy vũ.”
Uất Trì Thanh càng không hiểu, “Điện hạ, ngài nhìn…… nhìn thấy hình xăm này trên người ai đó hả? Thuộc hạ quen …… quen không ít bạn bè trên giang hồ nhưng chưa bao giờ nghe ai nhắc tới cái này.”
Lưu Trường Ương không đáp lời hắn mà nắm chặt dây cương, mặt nhìn con đường núi phía trước và ba cái bóng đã hóa thành ba chấm đen. Cuối cùng hắn mở miệng, “Vậy lưu ý một chút, nếu tra được nhớ bẩm báo ngay cho ta biết.”
***
Vào lúc tảng sáng rốt cuộc Đỗ Hâm cũng rời khỏi chiếu bạc và đứng lên. Ông đẩy lui một chén trà xanh được bưng tới cho mình rồi lắc lư đi ra cửa duỗi người thoải mái trong nắng mặt trời mới lên. Sau đó ông khom người trêu đùa một con mèo lười đang cuộn người bên bậc cửa rồi mới đi về phía cỗ kiệu đã chờ ở cách đó không xa. Ông được gã sai vặt Hữu Vị và người đánh xe ân cần đỡ lên xe.
“Lão gia, có hồi phủ không?” Hữu Vị ngồi cạnh người đánh xe và quay đầu hỏi.
“Không trở về,” Đỗ Hâm ngáp một cái thật dài, “Mấy ngày nay thời tiết rất tốt, nắng cũng ấm, là lúc cá về tổ, chúng ta tới bên suối…… thả câu đi.”
“Nhưng cả đêm qua lão gia không ngủ, giờ lại đi câu sợ sẽ ảnh hưởng sức khỏe đó!”
Đỗ Hâm cười hê hê, “Đêm nay không những không thua mà còn thắng công tử nhà họ Trương một tòa biệt viện. Chỗ kia mới xây ba năm, lưng dựa núi, mặt nhìn ra sông lớn, điêu khắc tinh xảo, phải nói là đầy hứa hẹn. Chuyện tốt thế này rơi xuống đầu mà ta còn ngủ được chắc?” Nói xong ông vén rèm lên và nhìn cảnh phố phường dần náo nhiệt thì cong mắt, đuôi mắt theo gió hếch lên, “Ra khỏi thành, đến suối Bách Chuyển.”
Dòng suối nhỏ róc rách như một sợi chỉ bạc được khâu vào bờ cát hai bên.
Đỗ Hâm ngồi trên một cái ghế gấp, trên người khoác áo choàng quý giá, ngón tay vân vê một cái cần câu bằng trúc. Cần câu hơi cong, một đầu khác rũ xuống mặt suối lóng lánh giống cái lưng đã hơi còng của ông.
Giỏ tre ở bên cạnh đã chất chồng một đống cá. Đúng như ông nói, đây chính là mùa cá béo về tổ, là thời điểm thích hợp để thả câu.
Cây gậy trúc kia đột nhiên động đậy, hiển nhiên lại có cá cắn câu. Nhưng Đỗ Hâm không nhấc cần trúc mà chăm chú nhìn một con cá lộ sống lưng cách cần câu chừng ba thước.
Nó đã lặn xuống nước nhưng chỉ cần liếc mắt là thấy và thế là đủ. Ông thấy được đống vẩy trên lưng nó không chỉnh tề như răng lược giống những con cá khác mà loang lổ. Những chỗ trống lộ ra thân cá màu xám.
Người bình thường đương nhiên không thể nhìn thấy những cái này, dù có nhìn thấy nhưng trong khoảng thời gian ngắn cũng sẽ không nhớ rõ hình dạng của vảy cá. Nhưng ông là Đỗ Hâm, là người thi đậu tam nguyên, là người vừa nghe đã nhớ, vừa gặp là không bao giờ quên.
Đỗ Hâm thu cần câu và kéo con cá cuối cùng lên ném vào giỏ tre. Lúc này ông mới đứng dậy ngáp sau đó cười nói với gã sai vặt đằng sau, “Hôm nay đúng là
ăn may, ngồi có một lúc đã câu được hơn 20 con. Thôi không câu nữa, phu nhân đã tặng cá cho hàng xóm láng giềng khắp một lượt rồi, hiện tại chỉ sợ mọi người đã uống canh cá tới độ muốn nôn.”
Gã sai vặt cõng giỏ tre, miệng lải nhải, “Chính là thế đó lão gia. Phu nhân mà thấy một sọt cá to thế này có lẽ lại nổi trận lôi đình. Lão gia à, đừng nói hàng xóm, ngay cả mèo nhà chúng ta hiện tại nhìn thấy cá cũng trợn mắt không có con nào muốn ăn kìa.”
Đỗ Hâm duỗi tay tạt đầu tên kia, “Điêu toa.”
Nói xong ông vịn cánh tay gã sai vặt đi trên bờ cát trơn ướt. Ai biết mới đi được vài bước đã thấy gã sai vặt trông cửa nhà mình chạy ào tới, vừa chạy vừa hét,
“Lão gia, Hoàng Thượng triệu kiến, phu nhân giục ngài nhanh về nhà thay quần áo và tiến cung.”
Đỗ Hâm quỳ gối trong điện Quảng Minh, đầu vùi trong tay áo không nhúc nhích, nhìn giống một con chim cút.
Viêm Khánh đế ngồi trên ngai vàng và nhìn ông không chớp mắt một lúc lâu mới cười khẽ. Tiếng cười kia quanh quẩn trong đại điện và chui vào tai Đỗ Hâm.
“Đình Bá Công mau bình thân, vốn cũng không phải chuyện khó lường gì, theo như trẫm thấy thì có người đố kỵ trẫm ngày thường quá yêu mến ái khanh nên mới bẩm tấu về khanh.”
Đỗ Hâm vẫn không dám đứng dậy mà chỉ hơi ngẩng đầu nhìn về phía Viêm
Khánh đế. Mặt hoàng đế rất trắng, giống một quả trứng gà mới bóc vỏ, đôi mắt sáng, đầu dài, gò má cao, răng trắng như ngọc.
Diện mạo chính trực kia lại bị bao trùm bởi ánh mắt không ai nhìn thấu, giống như kẻ kia đang đeo một tấm mặt nạ da người.
“Thần không dám, về sau thần sẽ…… không bao giờ bài bạc nữa……” Đỗ Hâm ngập ngừng và dâp đầu lên sàn gạch kiên cố, cái mũi dán trên mặt đất và ngửi được mùi Tô Hợp hương quanh quẩn hàng năm mãi không tiêu tan.
Lúc sau ông ta thấy sắc áo màu vàng của Viêm Khánh Đế tới gần và dán lên quan phục của mình.
“Đỗ khanh còn muốn trẫm tự đỡ ngươi dậy ư?” Viêm Khánh đế than một tiếng và duỗi tay đỡ cánh tay kéo Đỗ Hâm đứng lên, đôi mắt nhìn ông và nhẹ nhàng lắc đầu, “Đình Bá Công cũng lớn tuổi rồi, phải để ý tới thân thể. Cơ nghiệp của trẫm còn cần khanh bảo vệ đó.”
Đỗ Hâm vội khom lưng nói liên miên, “Có thể phò tá Hoàng Thượng là phúc thần tích được mấy đời. Say này thần nhất định sẽ giữ mình trong sạch và không bước vào sòng bài một bước nào nữa.”
“Aizzz,” Viêm Khánh đế nhẹ vung tay, “Triều ta chưa bao giờ cấm đánh bạc, ngay cả trẫm khi nhàn hạ cũng thích chơi bời lêu lổng thì làm sao có thể bởi vậy mà giận chó đánh mèo ái khanh? Hơn nữa, trẫm đã cho người hỏi thăm, ái khanh cũng chẳng giở trò bịp bợm, chỉ dùng kế để thắng. Đó là bản lĩnh của
chính mình.” Nói tới đây ánh mắt sâu kín của ông ta nhìn vào đáy mắt Đỗ Hâm, “Có ai không muốn thắng đâu? Nếu trẫm không muốn thắng thì hôm nay sẽ không ngồi được trên ngai vàng này.”
Đỗ Hâm lại cong người nói, “Hoàng Thượng là người mang mệnh của chân long thiên tử……”
Nói còn chưa dứt lời Viêm Khánh đế đã vỗ nhẹ vào vai Đỗ Hâm, “Loại khen tặng nếu là người khác nói thì trẫm cũng chỉ nghe để đấy, còn ái khanh thì không cần nói mấy thứ này làm gì.” Nói xong ông ta xoay người lên ngai vàng, bóng dáng được mạ vàng bởi ánh nắng chiếu qua cửa sổ, “Mệnh của mỗi người đều dựa vào chính mình dựng nên, ngay như khanh cũng tự dựa vào sức mình để có nhà cửa. Trẫm cũng dựa vào sức mình để thắng được ngai vàng này.”
Vừa dứt lời ông ta đã ngồi xuống ngai vàng, trong ánh mắt là ý cười nghiền ngẫm, “Năm đó trẫm cũng phải đánh cuộc, chẳng qua tiền đặt cược này quá lớn, người thắng làm vua còn kẻ bại sẽ phải chết. Trẫm cũng đánh cược tính mạng
của cả tộc đó.”
Ông ta ngồi thẳng lưng nói, “May mà trẫm thắng.”
Rốt cuộc Đỗ Hâm cũng dám đứng dậy, “Thánh Thượng là người trí dũng song toàn, đâu có như thần, chỉ muốn kiếm thêm ít tiền để sau khi chết con cháu được
sống lâu hơn chút.”
Viêm Khánh đế nhìn thẳng vào khuôn mặt của Đỗ Hâm một lúc lâu cuối cùng
cũng nhếch miệng cười, “Trẫm rất thích khanh ở điểm này. Khanh lúc nào cũng nói thẳng không cố kỵ, cũng chưa bao giờ che giấu điều gì.” Nói đến đây ông ta như nhớ tới cái gì đó và than thở một tiếng sau đó lắc đầu nói, “Nếu năm đó Thẩm Úy có thể giống khanh thì sẽ không rơi vào kết cục như ngày hôm nay.”
“Thẩm Úy?” Đỗ Hâm ngẩng đầu lên, “Ông ta làm sao?”
“Đã chết,” Viêm Khánh hoàng đế nhẹ nhàng phun ra hai chữ này, sắc mặt không có gì thay đổi, “Tuy chưa tìm được thi thể, nhưng Tây Chiếu gửi tin tức tới nói cả nhà họ Thẩm hẳn đã chết trong tay Cảnh Vương.” Nói tới đây ông ta lại cười lạnh vài tiếng, “Thẩm Úy ấy à, năm đó ông ta thành thật đi theo trẫm thì dù có không được trọng dụng cũng không đến mức rơi vào cảnh cả nhà bị giết hại thế này. Cảnh Vương đúng là tàn nhẫn.”
“Thẩm Úy…… đúng là hồ đồ,” Đỗ Hâm lắc đầu cảm thán sau đó tặc lưỡi, “Hồ đồ, quá hồ đồ.”
“Thế theo ái khanh thì thế nào mới không hồ đồ?” Kẻ trên ngai vàng nhanh chóng tiếp lời, mí mắt hơi giật giật lóe tia sáng.
Đỗ Hâm cúi đầu nói, “Hôm nay thần cả gan nói một câu bất kính với bệ hạ. Thần không có bản lĩnh gì khác, nhưng ánh mắt nhìn người vẫn rất chuẩn. Nhìn người cũng giống đánh bạc, nếu cược thắng thì ắt có thể thẳng tiến không lùi, thuận buồm xuôi gió. Nếu cược sai thì vận mệnh của bản thân và cả nhà coi như bị cắt đứt. Thẩm Úy…… tuy sau này có hiểu được đạo lý ấy nhưng tiếc là đã quá muộn, thế lớn đã mất nên chỉ có thể thành quân cờ trong tay kẻ khác và mặc người ta xoa nắn. Nhưng thần không phải kẻ ngốc, tuyệt đối sẽ không để bản thân đi tới con đường ấy.”