Hắn nổi tiếng với khả năng lấy yếu thắng mạnh, nên giờ đây với binh lực chiếm ưu thế hoàn toàn, tất nhiên hành quân cũng được thuần buồm xuôi gió hơn nhiều.
Tuy nhiên, lần này là do Long vương Mạch Khắc Tắc Nhĩ đích thân thống lãnh, lại có thêm gia tộc lớn thứ nhì của hải dương là Niêm Hoa tộc làm trợ thủ, do đó mà tàn quân của Tát La cũng không phải là một đám ruồi nhặng chỉ biết hành động mù quáng mà thôi. Bọn họ đã dùng toàn bộ binh lực để rải đều tại phòng tuyến ở phía trước mười hai tòa thành cuối cùng, thậm chí còn không tiếc lưu lại một tòa thành nào để dùng làm nơi nghỉ chân khi cần phải bỏ chạy nữa.
Nếu cứ dựa vào tình hình chung mà phán đoán thì hành động này là tuyệt đối ngu xuẩn, nhưng với tình thế hiện nay, nó lại trở thành một quyết sách thật cao minh, vì khi đang gặp phải đại hạn này, họ có thể bảo đảm việc bổ sung và sức chống đỡ của binh lực trong thành.
Quân Tây Bắc sẽ không từ xa mà vượt ra phía hậu phương để bất ngờ đánh úp họ. Mạch Khắc Tắc Nhĩ tính toán rất chính xác, bởi vì bất luận một cánh quân nào của phe địch mà muốn vượt qua mười hai tòa thành này tất sẽ phải tốn hết hai ngày thời gian.
Chỉ cần đợi họ chỉnh đốn xong quân đội và chuẩn bị tấn công thì liên quân Đông Nam sẽ nhanh chóng xông lên từ phía sau, đến chừng đó thì họ sẽ rơi vào cuộc diện lưỡng đầu thọ địch ngay.
Do đó, người Tây Bắc chỉ có một lựa chọn duy nhất là tấn công mãnh liệt thôi.
Trận chiến này từ đầu tới cuối không có gì thay đổi, song phương đều lợi hại không chịu kém địch nhân, khiến cho vùng hải vực Sâm Kỳ Lang bị biến thành một biển máu, thi thể binh sĩ của đôi bên trôi lềnh bềnh trên nước, không ai chôn cất cho. Vì vậy mà chúng đã hấp dẫn đám ma thú tàn dư sau cuộc bạo động kéo đến rất nhiều. Bọn chúng hưng phấn tụ tập ở xung quanh chiến trường và chờ đợi những bữa ăn ngon không cần tốn chút hơi sức nào mà có. Tầm quan trọng của cuộc chiến này không cần nói cũng biết, kỳ chiêu lớn mật của Long vương Mạch Khắc Tắc Nhĩ có thể thu ngắn phòng tuyến của họ lại gần phân nửa, rồi tùy theo đó mà đề thăng mật độ của binh lực phe nhà, do đó mà việc phòng ngự cũng dễ dàng hơn nhiều.
Đối mặt với phòng tuyến mở rộng nhưng nhiều sơ hở cùng với việc không phải lo sợ bị tập hậu của địch nhân, phe Tây Bắc chỉ có thể lực bất tòng tâm mà thôi.
Nguyên bản họ đang chiếm ưu thế về binh lực, chiến thắng đã nằm trong tầm tay, nhưng nếu muốn kết thúc trận chiến này chỉ trong vòng bốn ngày thì đó thật đúng là không có khả năng.
Thế nhưng phe Tát La cũng phải nếm nhiều cay đắng với sự đáng sợ của kẻ mà họ từng tôn xưng là vô địch thống soái của mình. Cho dù đã đầu nhập vào quân địch, nhưng hắn vẫn là một thủ lĩnh đánh đâu thắng đó, không gì cản nổi, và luôn khiến cho người ta phải sợ hãi.
Tuy tàn quân của Tát La đã do Mạch Khắc Tắc Nhĩ thống lãnh, mặc dù họ chống trả rất quyết liệt, cùng với quyết sách cao minh khiến cho người ta phải đau đầu, thế nhưng Mộ Dung Thiên vẫn khiến cho người ta nhận thức được tài năng quân sự của hắn - vi thao tác (hành quân xé nhỏ).
Mộ Dung Thiên không hề phát lệnh tấn công toàn diện, mà hắn lại chia chín quân đoàn ra thành rất nhiều tiểu đội nho nhỏ, mỗi một tiểu đội đều đảm nhận một nhiệm vụ khác nhau, nhưng lại phối hợp với nhau rất mật thiết và xảo diệu. Mỗi khi một tiểu đội nào đó xuất binh thì tựa như họ đều có một âm mưu nào đó khó có thể đoán biết được.
Bọn họ giống như hằng hà sa số châu chấu, cứ từ từ chiếm lấy từng thành một như tằm ăn dâu vậy.
Khi phải ứng phó với vô số tiểu đội kia không ngừng nghỉ, tàn quân Tát La vừa bị mệt mỏi quá độ mà cũng vừa bị rối loạn cả lên. Bọn họ quá ỷ lại vào tầm vóc đồ sộ, nên đã quên rằng trong chiến tranh, mỗi một chi tiết nhỏ tuy chẳng đáng kể, nhưng sau khi chúng tích lũy lại thì toàn bộ phòng tuyến đã biến thành tấm lưới rách có hàng trăm ngàn lỗ hổng rồi.
Nếu muốn cho một cỗ máy vững chắc bị ngừng vận chuyển, vậy thì phương pháp đơn giản nhất là trước tiên phải tháo ra từng con ốc nhỏ mà không mấy người chú ý. Đó chính là chiến lược của Mộ Dung Thiên.
Thế là phòng tuyến có cường độ binh lực cực cao và sức phòng thủ lại vô cùng kiên cố, vậy mà chẳng mấy chốc đã bị tan rã từng chút một. Quân đội của Tát La liên tục bị hao hụt, nhưng cuộc chiến này lại không hề oanh oanh liệt liệt, thậm chí cả phe Tát La cũng không cảm nhận được nguy cơ đang phủ lên đầu mình. Phương thức giết người không thấy máu này thật khiến người ta phải kinh sợ trong lòng.
Vào lúc này đây, Mộ Dung Thiên tựa như một gã đầu bếp vậy. Trong lúc bất tri bất giác, một chiếc đầu bò hoàn chỉnh dưới lưỡi đao khéo léo của hắn, đã được chia thành hai đống thịt và xương rất rõ ràng.
Sau cuộc binh biến do hắn đích thân bày kế, cả thuộc hạ của mình cũng không buông tha, Mộ Dung Thiên đã biến thành một ma vương đáng sợ, và cũng là một vô địch thống soái lãnh khốc vô tình, không hề cố kỵ điều gì, khiến cho người ta nhìn thấy mà phải kinh sợ vô cùng. Ngay cả những tướng lĩnh Tây Bắc dưới tay hắn vốn nổi tiếng hung tàn bạo ngược, vậy mà sau khi nhìn thấy hắn thì cũng đều cảm thấy thiếu tự nhiên, bởi vì vị thống soái đầy mưu ma chước quỷ này quả thật rất đáng sợ.
Khi quân đội Tát La tưởng rằng phòng tuyến của họ vẫn được bình yên vô sự thì trên thực tế, nó đã gần đến lúc bị tan vỡ rồi. Đến lúc đó thì tất cả đều quá muộn, và quân Tây Bắc chỉ còn mỗi việc là phát động tổng tấn công mà thôi.
Lần này quả nhiên Tát La không còn sức để chống đỡ nữa, họ bị buộc phải bỏ rơi thành trì, thậm chí tất cả binh lực cũng đều tập trung hết về Long đảo.
Long đảo từ trước tới nay vẫn được xem là thánh địa ở trong mắt người dân tại Tát La, nó còn quan trọng hơn cả thủ đô Tư Ba Đạt Khắc Lộ. Nếu như Long đảo bị thất thủ, điều đó có nghĩa là Tây Bắc đã đốn ngã cột trụ tinh thần của Tát La, thậm chí là của tất cả mọi người dân của Tát La nữa. Điều đó cũng nói lên rằng Long vương Mạch Khắc Tắc Nhĩ không phải là thần và ông ta cũng có lúc bị thất bại như ai. Đến lúc đó thì những thành trì đã bị công hạ lúc trước mới triệt để thần phục người Tây Bắc. Vì vậy mà đối với người Tây Bắc, việc này có ý nghĩa cực kỳ trọng đại, chứ không đơn giản như là công hạ một thành trì nho nhỏ thôi đâu.
Thời gian còn lại không còn nhiều nữa, quân Tây Bắc không còn dịp để chỉnh đốn lại đội ngũ, mà phải lập tức tiến lên bao vây Long đảo. Song song đó, phe Tát La cũng không có cơ hội nghỉ ngơi chút nào.
Khi những thành lớn khác bị thất thủ, Tát La hoàn toàn bị rơi vào liệt thế, tuy nhiên, dưới sự đả kích không ngừng của quân Tây Bắc, họ vẫn ngoan cường chống đỡ, bởi vì họ luôn tin tưởng vào vị thần linh của các hải quốc. Một ngày nào ông ta còn ở trong quân, thì ông ta vẫn còn là vị thủ lãnh tinh thần của họ, chống đỡ cho các vị tướng sĩ, và giúp cho họ phát huy hết tiềm lực vượt qua cả mức cực hạn của mình.
Cuộc chiến liên tiếp giằng co trong ba ngày, Mộ Dung Thiên cũng ba ngày đứng trước chiến tuyến mà không có lúc nào được nghỉ ngơi. Tuy nói là chiến đấu với Tát La, nhưng kỳ thật thì chẳng khác nào hắn đang chiến đấu với thời gian vậy, bởi vì hắn phải đích thân quan sát chiến cuộc mà lúc nào cũng có thể xảy ra biến hóa, tùy thời mà hạ lệnh, cố hết sức để tỉnh táo mặc dù hắn chưa có một giây phút nào để nghỉ ngơi.
Người bình thường không nghỉ ngơi mấy hôm thì cũng có thể miễn cưỡng chịu đựng được, còn đối với một võ giả thì hơn mười ngày cũng chẳng đáng là gì. Nhưng nếu là một kẻ đứng đầu trong quân, mỗi một cuộc chiến đều bị tiêu hao sức lực và tinh thần lực rất nhiều, không có thời khắc nào là không phải phân tích chiến cuộc, đồng thời còn phải điều động binh tướng và tùy thời mà đưa ra quyết sách toàn diện cho đại quân, vậy thì não óc của người đó sẽ phải làm việc liên tục và phải gánh chịu áp lực rất trầm trọng; chỉ cần mấy ngày không nghỉ ngơi thôi, vậy thì ngay cả một người sắt cũng sẽ bị tan vỡ ngay.
Thế nhưng Mộ Dung Thiên vẫn đứng vững như thường, điều đó khiến cho chúng tướng càng kính nể và sợ hãi hơn. Bọn họ chỉ phải thống lãnh một cánh quân thôi, mà sau ba ngày chiến đấu thì cũng đã bị tiêu hao rất nhiều tâm lực rồi. Mỗi ngày họ chỉ ngủ được vài tiếng, nhưng còn Mộ Dung Thiên thì ba ngày qua chưa hề chợp mắt tí nào, vậy mà hắn vẫn có thể trầm ổn quyết đoán và đưa ra các mệnh lệnh rất sáng suốt. Sức dẻo dai của hắn quả thật là khó tưởng tượng nổi.
Cũng may, hôm nay người này lại đang ở bên phe mình!
Bái Yết La quốc sư quả nhiên đã không nhìn lầm người. Chỉ có hắn mới có thể hoàn thành nhiệm vụ gian nan này, trước khi liên quân Đông Nam đặt chân lên Tát La trước.
- Luân Đô, mau thống lãnh một cánh quân thích khách đi tập kích ma pháp sư quân đoàn của họ ở tây môn.
- Tang Nạp, mau để cho Dã Man nhân chiến sĩ của quân đoàn thứ ba tạm thời lui về, sau đó dùng khinh kỵ binh mà tấn công đối phương.
- Tác Lâm Đức, mau phái thêm năm ngàn cung tiễn thủ đến áp chế nhóm chiến sĩ ở chiến điểm thứ ba mươi hai.
- Khẳng Địch Tư, ngươi lập tức.....
Mộ Dung Thiên nói tới đây thì bỗng nhiên dừng lại. Khẳng Địch Tư và chúng tướng đang chờ lệnh đều cảm thấy thắc mắc.
Vị đại thống soái ngang tàng của họ đang đứng trên đài cao và nhìn về hướng xa xa, chỉ thấy từ trên Long đảo chợt xuất hiện hai vị nữ tướng.
Lâu nay Mộ Dung Thiên không hề biến sắc trước sự việc gì, nhưng đây là lần đầu tiên hắn để lộ thần tình cổ quái.
Chúng tướng đều có thể hiểu được sự dị thường của vị ma vương lạnh máu này, bởi vì hai vị nữ tướng kia chính là hai nàng kiều thê của hắn, Tân Địch Á và Mâu Cơ.
Cả hai nàng đều đang mặc nhung trang, và đích thân cầm quân xuất trận.
- Đan Ni Tư, ta phải giết ngươi!
Lời nói băng lạnh được thoát ra từ miệng của Mâu Cơ. Lực lượng của nàng không tầm thường, nên thanh âm vang vang chấn động khắp mặt biển.
Trong ánh mắt của Mộ Dung Thiên thoáng hiện lên một tia thống khổ. Hắn thà rằng Long nữ gọi hắn là quỷ mặt đen, tuy nó hơi khó nghe, nhưng trong đó lại ẩn chứa vô hạn ái ý của nàng đối với mình.
Nhưng hiện tại, nàng không còn dùng tới cách xưng hô trìu mến đó nữa, điều đó chứng minh rằng nàng đã hoàn toàn đoạn tuyệt với mình.
Còn Tân Địch Á lúc này thì lại không giống Mâu Cơ, khuôn mặt của nàng hoàn toàn băng giá. Nàng là một tòa băng sơn đã từng bị nung chảy, nhưng giờ đây cũng đã đông kết lại. Cánh cửa nội tâm của nàng sẽ không bao giờ mở ra vì một kẻ nào nữa.
Phải chăng bọn họ đã thống hận mình tới cực điểm rồi sao?
Mộ Dung Thiên phảng phất cảm thấy có gì đó tắc nghẽn ở trong đầu, không thể thốt thành lời.
Lúc này lại có một người khác từ sau lưng hai nữ nhân kia mà tiến ra. Vừa thấy ông ta, các binh sĩ của song phương đang giao chiến đều lập tức dừng tay lại.
Long vương Mạch Khắc Tắc Nhĩ.
Mạch Khắc Tắc Nhĩ rẽ mọi người mà tiến về phía trước, ngạo nghễ đứng thẳng ở trên mặt biển.
Rất nhiều người cho rằng khi rơi vào tình huống binh bại như núi đổ, nhất định Mạch Khắc Tắc Nhĩ sẽ xốc xếch rất khó coi, nhưng giờ đây họ mới biết là mình đã sai. Mạch Khắc Tắc Nhĩ vẫn là chủ nhân của hải dương như lúc trước, ông ta chỉ lẳng lặng đứng ở đó, trên người toát ra một loại khí thế khiến cho quân Tây Bắc cảm thấy không thể chiến thắng được ông ta.
Đó chính là thần của hải dương. Ngươi có thể chiến thắng Tát La, chiến thắng các quốc gia trung lập khác, nhưng vĩnh viễn sẽ không chiến thắng được ông ta.
Ngay cả chúng tướng của Tây Bắc cũng vậy, họ đều lộ vẻ sùng kính cực độ. Vô luận thành bại thế nào, Long vương vẫn là một vị tuyệt thế cường giả được người người tuyệt đối tôn kính. Điều đó vĩnh viễn sẽ không thay đổi.
Đã lâu như thế mà Mạch Khắc Tắc Nhĩ chỉ là một vị chủ soái của Tát La, ở phía sau mà vận trù quyết sách. Chỉ có lần này là lần đầu tiên mọi người nhìn thấy ông ta xuất hiện ở tiền tuyến.
Dưới hàng ngàn hàng vạn ánh mắt của mọi người, Mạch Khắc Tắc Nhĩ lấy ra một vật.
Đó là một chiếc kèn lệnh, nhưng nó lại không giống với những chiếc kèn lệnh ở trong quân.
Mộ Dung Thiên là người đầu tiên nhận ra chiếc kèn lệnh đó, bởi vì nó có khá nhiều quan hệ dây mơ rễ má với hắn.
Nhờ chiếc kèn lệnh đó, hắn đã chiếm được sự tín nhiệm của Mạch Khắc Tắc Nhĩ, một bước lên mây.
Cũng nhờ chiếc kèn lệnh đó, hắn đã quen được Duy Đa Lợi Á, rồi từ đó mới nắm giữ được Thủy Đô, và dùng nó làm ngòi nổ để chuẩn bị tốt cho cuộc binh biến.
Những việc có liên quan tới chiếc kèn lệnh đó còn rất nhiều nữa.
Nhưng mà từ đầu tới giờ, Mộ Dung Thiên vẫn không biết được, rốt cuộc Thiên Ma hào lại có tác dụng gì.
Mạch Khắc Tắc Nhĩ thở dài nói:
- Ta chưa từng nghĩ rằng sẽ có một ngày phải mượn đến lực lượng của nó.
Thanh âm của ông ta không lớn, nhưng lại truyền vào tai của từng người rất rõ ràng.
Tướng sĩ của song phương nghe vậy thì đều kinh sợ. Ngay cả một tuyệt thế cường giả như Mạch Khắc Tắc Nhĩ mà cũng phải đi mượn ngoại lực, vậy chiếc kèn lệnh kia là thứ gì mà ghê gớm như thế?
Thế rồi ông ta đưa Thiên Ma hào lên miệng, sau đó liền có một nhạc khúc với vận luật kỳ dị và trầm thấp liền chậm rãi vang lên. Khi nó lọt vào tai mọi người thì lại như một trấn hồn khúc của địa ngục vậy, trực tiếp đả động đến linh hồn của mọi sinh vật. Đám binh sĩ đều bị ma lực của Thiên Ma hào làm cho mê hoặc, ngay cả tọa kỵ của chúng cũng bị rơi vào ảo cảnh mà không thể nào kiềm chế được. Ai nấy đều ngơ ngơ ngác ngác ở trên biển, và quên đi hết tất cả ở xung quanh.
Chỉ có những cường giả tương đối cao thâm thì mới có thể giữ được tâm tính bình thường. Khi các tướng lĩnh Tây Bắc đều cho rằng chiếc kèn lệnh đó chỉ là một loại vũ khí có tác dụng thôi miên, họ liền kêu một nhóm thôi miên sư đến để giải thuật cho các binh sĩ, đột nhiên lúc này dị biến liền phát sinh.
Ầm ầm, ầm ầm, ầm ầm.....
Mặt biển bỗng nhiên sôi trào, tiếp theo đó là rất nhiều bọt nước sủi lên rồi vỡ tan, sủi lên rồi vỡ tan....
Đến lúc này thì đám binh sĩ mới giật mình tỉnh mộng, ai nấy đều kinh nghi không biết dị tượng gì đang phát sinh, mà toàn bộ mặt biển đều đang sôi lên, tựa hồ như có vật gì đang muốn xông ra vậy.
Theo sóng lớn cuồn cuộn, trên mặt biển liền thấy xuất hiện rất nhiều ma thú, phải nói là đông nghìn nghịt, nhìn không thấy biên giới đâu cả. Trong bọn chúng, loại nhỏ thì như phong ngư, bé bằng ba bàn tay, chuyên dùng đuôi để tấn công người ta; còn loại lớn thì cũng là ma thú to đến hơn mười thước.
Các binh sĩ thấy vậy thì tim gan đều ớn lạnh, còn chúng tướng của Tây Bắc thì mở tròn hai mắt, phảng phất như là không tin vào mắt mình vậy. Ma thú bạo động vừa kết thúc không lâu, theo lý thì không thể có tình trạng chúng tụ tập lại đông như thế. Nói chính xác hơn thì chúng còn có vẻ đông hơn cả trong lúc bạo động nữa. Trong đó không thiếu các loại quỷ thú và hung thú rất ít xuất hiện trong các lần bạo động như Kình Thôn, Nghiệt, Bách Tề Lãi Diệp, vv....Thậm chí có vài con với thể tích còn to bằng hòn núi, và cũng có vài con quái thú còn tồn tại từ thời viễn cổ mà không biết tên nữa.
Sầm!
Trong những đợt sóng cuồn cuộn, một con quái mãng rẽ nước mà xộc ra.
Nó không phải đơn thuần là một con mãng xà, mà thân nó dài chừng vài trăm thước, khắp người đều có vẩy, trên đầu có đôi sừng, và thêm bốn cái chân có móng vuốt như móng ưng nữa.
Mọi người nhìn thấy nó thì kinh hãi hít sâu một hơi, toàn thân đều sởn gai ốc. Những ai có chút kiến thức đều biết nó là Thanh giao, một loại hải ma chuẩn S cấp và cũng sắp hóa thân thành rồng.
Phải biết rằng, trong đám ma thú cấp S, rồng cũng là một loại vô địch chứ chẳng chơi.
Con Thanh giao này vốn đang tĩnh tu thì bị làm kinh động, xem ra đang rất khó chịu. Hai mắt của nó bắn hung quang ra bốn phía, còn chiếc mõm thì há lớn và phun phì phì rất đáng sợ.
Mà đó cũng không phải là nó đang phun phì phì đơn giản như vậy. Đó là một loại phương thức tấn công rất trứ danh của rồng - Long tức. Loại khí tức đang được Thanh giao sử dụng không phải là một loại thuộc chúc tinh thuần, nhưng nhân loại vốn là những sinh vật yếu đuối thì lại không thể nào chịu đựng được.
Từng đợt sóng công kích mạnh không thể tưởng đã tạo thành một loại chiến hào thật sâu ở trên mặt biển. Mỗi một tiểu đội hơn trăm kỵ sĩ của quân Tây Bắc vốn không có năng lực chống đỡ, vì vậy mà họ đều lập tức biến thành tro bụi ngay, cả một mảnh thịt vụn cũng không để lại chút nào.
Lực lượng đó thật là đáng sợ!
Đám ma thú tiếp theo phát động tấn công là Kình Thôn. Lúc này chúng phun ra rất nhiều lưu tinh thủy đạn để vây lấy hơn trăm Dã Man nhân, sau đó liền nuốt họ vào bụng, khiến cho bao tử của chúng càng lúc càng phình lớn lên.
Những con quỷ thú và hung thú khác cũng không muốn chậm trễ, lập tức tấn công ồ ạt, đồng thời hàng ngàn hàng vạn con ma thú khác cũng cùng lúc xông lên, tranh nhau đoạt lấy vô số sinh mạng.
Nhưng bọn chúng không phải gặp ai cũng hạ thủ, mà mục tiêu tấn công chính là đại quân Tây Bắc.
Đám hải ma hung mãnh này đột nhiên xuất hiện nên đã làm thay đổi chiến cuộc. Dù cho Mộ Dung Thiên có tài chỉ huy như thần, nhưng hắn cũng không có tài thông thiên triệt địa, nghịch chuyển càn khôn được. Huống chi, dưới sự tấn công của đám ma thú đông nghìn nghịt này, đám binh sĩ đã bị loạn cào cào rồi. Chiến cuộc đã hoàn toàn mất đi sự khống chế. Việc duy nhất có thể làm lúc này là hạ lệnh triệt thoái, nhưng đó cũng là trận thảm bại đầu tiên của Mộ Dung Thiên, và cái giá phải bỏ ra cũng rất lớn.
Hơn nữa, đột biến xảy ray, tất cả binh lực hầu như đều tập trung tại đây để tấn công Long đảo. Trên căn bản thì không ai ngờ rằng đối phương còn thừa sức để phản công, vì vậy mà trận này thật là nát bét, bởi vì có rất nhiều binh sĩ bị ma thú giết chết, tổn thất cực nặng.
Trong nhất thời, biển động sóng gào, các tướng sĩ của Tát La vốn không cần phải động thủ, mà họ chỉ giương mắt đứng nhìn quân Tây Bắc bị chết thảm dưới mõm và móng vuốt của đám ma thú mà thôi.
Mạch Khắc Tắc Nhĩ tiếp tục thổi Thiên Ma hào, điều khiển ma thú hoành hành bạo ngược, cho đến khi quân Tây Bắc hoảng loạn bỏ chạy đi thật xa thì mới dừng lại.
Cuối cùng, chợt có một nốt dài vang lên, sau đó thì tiếng kèn cũng dứt hẳn. Đám ma thú kia cũng thôi không tấn công nữa, mà chúng chỉ thu lại bạo khí rồi lặng lẽ lặn xuống nước và bơi đi mất.
Với sức của một người mà có thể triệu hoán hàng ngàn hàng vạn ma thú để phá tan trăm vạn đại quân như vậy, chẳng lẽ đó là chuyện mà nhân loại có thể làm được hay sao?
Nhìn Mạch Khắc Tắc Nhĩ như một thiên thần hạ phàm, trong lòng các tướng sĩ của Tát La đều dâng lên một sự kính nể vô bờ bến.
Lòng tin của họ vốn đã bị lung lay dữ dội, nhưng giờ đây lại được củng cố vững chắc thêm một lần nữa.
Long vương vĩnh viễn là một thần thoại bất bại!
Chỉ cần có ông ta ở đây, Tát La vĩnh viễn sẽ không bị diệt vong!
- Lão đầu tử, người thật là quá lợi hại!
Mâu Cơ vui vẻ nhảy đến trước mặt phụ thân, nhưng sau đó lại kinh hãi phát hiện ra sắc mặt của ông ta đã xám ngoét như xác chết, thậm chí còn có vẻ già thêm mấy phần nữa.
Mạch Khắc Tắc Nhĩ không muốn sử dụng đến Thiên Ma hào là vì có hai nguyên nhân.
Một là vì ông ta là tuyệt thế cường giả, vốn không cần phải mượn đến ngoại lực.
Hai là vì ngay cả ông ta cũng không thể khống chế được lực lượng siêu cường ở trong Thiên Ma hào.