mây khói. Nhà cửa, đường xá, cây lá được phủ một lớp màu mông lung,
sông nước cũng mịt mù hơi sương, chỉ có đám chim nước đậu bên mạn
thuyền vẫn đang thong thả chờ trời sáng theo thói quen, chuẩn bị vồ lấy lũ
cá quẩn quanh bên sóng nước khi thuyền giăng buồm, đôi cánh chúng
khuấy động sương mù, từ từ vén lên lớp màn sân khấu, đánh thức thành phố
tỉnh giấc.
Cô dâu mặc đồ cưới đỏ rực, thêu mẫu đơn chỉ vàng, chân tóc được chải dầu
đen nhánh, hai bên túm sát ra sau ót, búi thành búi thật chặt, cố định bằng
cây trâm vàng hai mũi. Đám bà mai tán dương cô dâu xinh đẹp, cô dâu mặt
lạnh tanh, im lặng không nói một lời, lại có mấy người phụ nữ đứng quanh
ngắm nghía, thảo luận trang phục mang hơi hướng Lĩnh Nam của cô, tò mò
không biết chiếc vòng vàng trên cổ cô nặng chừng nào. Từ đầu chí cuối cô
vẫn giữ vẻ mặt lạnh lùng, lặng im không một lời, vậy là có người bắt đầu to
gan tiến lại, vươn tay sờ thử đám xuyến vàng xếp chồng trên cổ tay cô.
Cô bị trói buộc trong đám gông cùm, không sao nhúc nhích nổi, những
chiếc xuyến nặng trĩu khiến cô chẳng còn sức mà giơ tay, nhưng khi đám
phụ nữ lạ mặt kia cười nói tiến lại, cô ngước mắt, chuẩn bị giáng một bạt tai
xuống, tuy vậy, dường như nhớ ra điều gì, bàn tay cô khựng lại nửa đường.
Người phụ nữ lỗ mãng nọ sợ hãi, đờ ra không biết phản ứng ra sao, gương
mặt trang điểm lộng lẫy của Cảnh Ninh chẳng rõ buồn vui, nhưng ánh mắt
lại rất lạnh lẽo.
Vì vết thương còn chưa lành hẳn nên Ngân Xuyên chỉ giấu mình ngồi trong
góc, khi tiếng pháo vang lên, cô dâu được dắt vào đại sảnh, anh mới có thể
hít một hơi, từ từ đứng dậy.
Cảnh Ninh đứng thẳng tắp giữa đại sảnh, đầu phủ khăn lụa đỏ, Đức Anh tỏ
rõ vẻ mừng rỡ, trân trọng, mắt lấp lánh phát sáng. Bà mai dẫn Cảnh Ninh
làm lễ, bàn tay ấn lên sống lưng cô, Cảnh Ninh thoáng khom người, mà mỗi
lần cúi mình sát đất, mắt mày Đức Anh đều hiện rõ niềm vui.
Làm lễ xong, Đức Anh tiến vội một bước về phía trước, cậu ta vươn tay,
chợt ôm ngang Cảnh Ninh lên, tay Cảnh Ninh quờ quạng trong không trung
như đang khiếp sợ, cuối cùng lại không thể không phủ lên vai cậu ta, một
chiếc xuyến trượt xuống, tinh tang rơi xuống đất, chẳng mấy chốc đã được
người khác nhặt lên, đeo lại vào tay cô, động tác bé nhỏ ấy bị nhấn chìm
trong tiếng cười nói, hệt như niềm kiêu hãnh cuối cùng của cô dâu, đang
dần hóa hư không.
Gương mặt lặng như đầm nước chết của Ngân Xuyên thoáng thay đổi, anh
muốn lùi về phía sau vài bước, lại quên đằng sau còn có ghế, vậy là lại ngã
ngồi xuống, đụng phải vết thương, cơn đau như xé gan xé phổi.
Anh là người chuẩn bị chính cho hôn lễ này, nhưng do thân phận tại nhà họ
Phan đã thay đổi, còn vướng phải kiện cáo chưa xong nên những chuyện
cần ra mặt anh để Cảnh Huyên đứng ra lo liệu cả, thực chất những quyết
định quan trọng đằng sau vẫn là do anh đưa ra. Khoảng thời gian ấy, hai mẹ
con nhà bà Vân dường như đã gắng hết sức cởi bỏ hiềm khích với anh, dù
sao mấy năm nay anh cũng không phải người dưng trong nhà, khi có việc
cũng chỉ có thể để anh gánh vác, “đồng tâm hiệp lực” xử lý hôn sự cho ổn
thỏa.
Hồi môn của Cảnh Ninh đã được chuẩn bị xong từ lâu, tích cóp dần từng
năm, đến khi chuyện vui tới chỉ phải thêm thắt chút ít, đổi thay chút đỉnh,
dù vặt vãnh như vậy nhưng Ngân Xuyên vẫn không hề lơ là. Từ giường
đệm, đồ dùng trong nhà đến áo quần trang sức, hay thậm chí là khăn trải
bàn, trải ghế, bình hoa, thau rửa mặt… việc to việc nhỏ, anh đều trút hết
tâm sức lo liệu.
Tự tay lo hết mọi việc, lại trơ mắt nhìn chúng được đưa đi cùng cô.
Chú rể bế cô dâu vào động phòng, đám người vây quanh cũng tiến vào
theo, ngoài sân chỉ còn xác pháo đỏ đầy đất, tán ngô đồng không hiểu lòng
người như còn vương lá chưa rụng hết, rơi xuống lại bị thổi đi, thổi đi rồi,
lại tiếp tục rơi xuống. Cuối cùng sương mù mịt mùng cũng tan, bầu trời
trong và trắng xóa như đang đông đặc lại, mùi thức ăn, rượu thuốc càng lúc
càng nồng, mấy đứa trẻ cười nói nhặt mớ dây pháo còn sót trên nền đất,
men hương thơm lần qua khung cổng vòm, chạy vào nhà ăn, Ngân Xuyên
ngồi lặng đi hồi lâu, chỉ chầm chậm ngước mắt.
Chạm mắt rồi, thấy một chàng trai trẻ đứng trước cửa đang quay người bỏ
đi.
Mạnh Tử Chiêu không biết tại sao mình lại tới đây. Thật ra cậu không tin
mình và cô sẽ chia ly, dù có liên tục cãi vã, dằn vặt nhau, họ cũng như hai
gốc dây leo, có chết khô cũng quấn quýt lấy nhau không rời. Cậu nhớ lần ấy
cô đuổi theo xe cậu như phát điên, đó là lần đầu tiên cậu dứt khoát vứt bỏ
cô, cậu như cảm thấy có niềm vui được giải thoát.
Dù lần ấy cậu cũng không nghĩ cô sẽ thật sự rời đi.
Lễ cưới này chân thực tới tàn khốc, gọn gàng mà dứt khoát, khoảnh khắc cô
dâu chú rể bái đường, Tử Chiêu chợt bừng tỉnh, hóa ra tương lai được bên
cô mà cậu từng mong ngóng đã đổ vỡ tan tành.
Cuối cùng chuyến xuất ngoại đã được quyết định, đêm trước khi đi, cậu trao
cho mẹ chiếc áo choàng lông cáo đen.
“Giấu giấu giếm giếm, cuối cùng cũng không giấu nổi.” Bà Mạnh trêu
ghẹo.
Tử Chiêu cười.
Bà Mạnh vuốt tóc con, mềm mại, hệt như tóc máu trẻ sơ sinh.
“Đời này có rất nhiều chuyện còn quan trọng hơn so với những việc vặt
vãnh con đang vướng bận, sinh nhai kiếm sống, tiền đồ sự nghiệp, bao thứ
ập tới, muốn sống cho tốt chẳng dễ gì, mà tìm được người thương phù hợp
với mình cũng rất khó, nhưng cuối cùng con vẫn sẽ tìm được, cũng như thời
gian rồi sẽ trôi đi.”
Tử Chiêu đáp vâng.
“Chiêu Chiêu, con có muốn biết mẹ nghĩ gì về Cảnh Ninh không?”
“Giờ nói những chuyện này còn nghĩa lý gì nữa ạ?” Cậu lạnh lùng đáp.
Bà Mạnh ôn hòa đáp: “Từ giây phút đầu tiên nhìn thấy con bé, mẹ đã thầm
nghĩ mình thật sự chưa từng gặp cô bé nào trong sáng thẳng thắn như vậy.
Đến tận bây giờ, cái nhìn của mẹ với cô bé vẫn không hề thay đổi.”
Tử Chiêu vươn tay xoa khóe mắt, nhưng lại không thấy lệ.
Cậu từng rơi lệ vào cái ngày đoạn tuyệt bên Đông Hồ.
Sau khi gặp cô tại đường Hoa Lầu, đêm ấy cậu đã có một giấc mơ, cậu mơ
thấy mình xuống xe, tiến lại kéo tay cô không buông. Cảnh Ninh rất vui
mừng, vung vẩy tay cả hai, cười hi hi nói: “Mạnh Tử Chiêu, mình ra sông
chơi đi, ngồi thuyền nhà anh nhé.”
Trong mơ, cậu khóc rất to. Thật ra cậu cũng biết rõ biệt ly không có gì đáng
sợ, chỉ là nó sẽ khiến người ta đau lòng thôi.
Cuối thu 1932, Từ Đức Anh và cô dâu mới của cậu ta xuất phát tại bến tàu
Hán Khẩu, giong thuyền về phía Nam, bắt đầu chuyến du lịch trăng mật;
Mạnh Tử Chiêu đã đi thuyền tới Thượng Hải trước, sau đó tiếp tục tiến về
đích đến châu Âu; Tạ Tề Phàm trở về Quảng Đông, ông sẽ sống phần đời
còn lại một cách bình lặng tại quê nhà Phật Sơn, từ đó không trở lại Hán
Khẩu nửa bước.
Hôm Tạ Tề Phàm đi, Ngân Xuyên đã đứng đợi từ sớm tại bến tàu, chỉ sợ lỡ
giờ tiễn biệt. Tạ Tề Phàm chẳng có mấy hành trang, ông mang ít hành lý,
cũng không đưa người theo trợ giúp, chỉ để một quản lý hãng buôn Thuận
Đức Tịch già cả theo cùng. Ngân Xuyên quay người nhìn về phía họ, nở nụ
cười vương nét thê lương, như thể đã dự cảm được đây chính là vĩnh biệt.
Gương mặt Ngân Xuyên tê cóng đến trắng bệch trong sắc trời xanh, tuấn tú
mà gầy gò, hệt như chàng trai anh tuấn, tốt bụng khờ khạo trong ký ức của
Tạ Tề Phàm. Nỗi thương xót gờn gợn trong mắt chẳng vì tuổi tác lớn dần
mà nhạt đi đôi phần, luôn có một thứ cảm giác bất an quẩn quanh trong đó.
Đã bao năm trôi qua rồi, niềm hy vọng và hạnh phúc của đứa trẻ này chưa
từng tìm nổi cho mình chốn yên thân.
Tạ Tề Phàm bùi ngùi cảm khái.
“Chú Tạ, cháu đã chuẩn bị xong từ sớm rồi, vẫn còn kịp ăn cơm.” Ngân
Xuyên mỉm cười nói, hai người trợ thủ của anh đứng xa xa một góc.
Tạ Tề Phàm vẫy tay, đưa mắt ra hiệu cho trợ lý, người trợ lý già gật đầu,
xách hành lý bước xuống bậc thang.
“Vết thương của cháu đỡ hơn chưa?” Sau khi bước lên khoảng đất bằng
trên đê, Tạ Tề Phàm ân cần hỏi.
Ngân Xuyên mỉm cười lật áo khoác ra, để Tạ Tề Phàm thấy phần áo sơ mi
phồng to của anh.
“Chưa tháo bột nên cháu không dám vận động mạnh, nhưng đã đỡ hơn
nhiều rồi.”
Tạ Tề Phàm nhìn anh chăm chú, sự dịu dàng anh ánh trong mắt ông, hồi
lâu, ông nói: “Chú thật sự hy vọng cháu có thể trở thành một thương nhân
bình thường, chịu bớt khổ sở thôi, sống cho thật bình yên…” Chưa nói dứt
lời, ông đã cười, “Cháu sẽ không thích cuộc sống như vậy.”
“Chú Tạ, cháu cũng muốn tâm sự với chú lời trong lòng cháu.” Ngân
Xuyên nói.
Có mây, nắng chiếu tản mát, bên này một ít, bên kia một chút, khiến nước
sông cũng dần sáng lên.
“Cháu từng nghĩ, nếu ngày ấy mẹ cháu để cháu chết chìm dưới Châu Giang
thì tốt, hoặc lần đầu tiên gặp chú, chú giết cháu luôn thì tốt, hoặc không thì
để Phan Thịnh Đường giết cháu cũng được. Nhưng mọi người lại để cháu
sống, sống trong địa ngục, sống suốt hơn hai mươi năm trời.”
Giọng Ngân Xuyên không lớn, gân xanh trên mu bàn tay nổi lên, anh đang
cố khống chế bản thân, đây là thói quen đáng buồn mà anh đã tập cho mình
suốt nhiều năm, anh chưa từng có cơ hội thể hiện cảm xúc thật của mình, dù
là trước mặt người đáng để tin cậy nhất.
“Từ nhỏ tới lớn, bạn bè của cháu tính ra chẳng được quá ba người, thậm chí
có thể nói cháu không có một người bạn nào. Cháu hòa nhã, thành thật,
chăm chỉ, đối xử tốt với tất cả mọi người, nhưng không một ai muốn gần
gũi cháu. Mặt cháu có thứ gì đáng sợ lắm sao? Hay cử chỉ của cháu quái lạ
lắm? Không phải. Nhưng cháu không giống mọi người, dù là ở hiệu buôn
Tây hay tại nhà họ Phan, hoặc là trong trường thì cháu cũng không giống
mọi người. Những người ấy đề phòng cháu, như thể cháu có thể cướp mất
của báu của họ bất cứ lúc nào. Vậy nên lúc nào họ cũng bắt tay với nhau,
đám tồi tệ, đám ngu ngốc, họ hùa vào cô lập cháu, bọn họ thân thiết kề cận
nhau lắm, không bao giờ coi cháu là bạn.”
Tạ Tề Phàm khẽ thở dài.
“Chú Tạ, cháu biết chú muốn cháu quay đầu, nhưng cháu biết quay về đâu
đây? Cháu mang bao nhiêu gánh nặng trên vai, cháu biết đi về đâu đây? Lết
từng bước tới ngày hôm nay, cháu phải về đâu? Chú thấy cháu ra tay tàn
nhẫn, vâng, cháu cũng nghĩ là vậy, nhưng cháu thấy vẫn chưa đủ, cháu
muốn những ngươi đó nhìn xem, nhìn phòng kế toán Hoa tàn tạ xuống dốc
khi về tay Ngân Xuyên sẽ thay đổi ra sao, dân Trung Quốc làm việc tại hiệu
buôn Tây như chúng ta bị người nước ngoài chèn ép ức hiếp, bị người
Trung Quốc khinh miệt dè bỉu, cháu muốn thay đổi tình cảnh này, cháu thật
sự muốn… Nhưng chú nói không sai, cháu đi quá nhanh, quá vội vã, cháu
phải trả một cái giá rất đắt.”
Tạ Tề Phàm nói: “Cháu muốn phòng kế toán Hoa thoát ly khỏi hiệu buôn,
nhưng lại dùng cách tổn hại tới lợi ích của mọi người, dù cháu đoạt được
thứ cháu muốn thì cháu cũng đã đánh mất nhân tâm.”
Ngân Xuyên gật đầu: “Vâng, cháu không chỉ tập hợp cổ phần của phòng kế
toán Hoa mà còn hãm hại rất nhiều cổ đông, vả lại Edmund cũng luôn ôm
thái độ thù địch với cháu.”
Tạ Tề Phàm nhướng mày: “Vậy là cháu muốn có cả hiệu buôn Tây Phổ
Huệ.”
Ngân Xuyên lắc đầu: “Cháu không bì được với cha ruột cháu, cũng không
bì được tiền bối Phan Thịnh Đường, bọn họ đều là những thương nhân bậc
nhất trên đời, đến người nước ngoài cũng dè chừng họ. Cháu không ôm chí
hướng lớn, không đủ bản lĩnh đoạt được cả hiệu buôn Phổ Huệ, cháu chỉ
muốn chi nhánh Hán Khẩu của nó, vì cháu biết cháu có khả năng ấy. Chú
Tạ, cháu muốn hiệu buôn Vĩnh Hòa của nhà họ Trịnh hồi sinh tại Hán
Khẩu, cháu muốn cướp lại những gì người Trung Quốc đáng có được từ tay
người Anh, cháu muốn vong linh cha mẹ cháu trên trời cảm thấy tự hào vì
cháu.”
Tạ Tề Phàm liếc nhìn anh, ánh mắt này chứa đựng muôn nghìn lời muốn
nói: “Đây là lần đầu cháu nói với chú nhiều lời trong lòng như vậy, Tiểu
Xuyên, chí hướng cháu cao xa, vượt qua cả tưởng tượng của chú, cha mẹ
cháu trên trời sẽ tự hào vì cháu.”
Ngân Xuyên quay mặt lại, nhin Tạ Tề Phàm chăm chú: “Chú Tạ, trong lòng
cháu chú cũng như cha cháu, chú là người thân của cháu. Nhưng giờ đây dù
sự thiếu tin tưởng của cháu đã khiến chú tổn thương, dù mọi hành động của
cháu đều khiến chú đau lòng thất vọng, vào thời điểm cháu gặp hiểm nguy
nhất, chú vẫn đứng bên cháu, dốc hết tất cả để giúp đỡ cháu. Cháu biết
khoản vốn ngài Đồng cấp cho Phú Hưng là tiền của chú, để giúp cháu bù
đắp lỗ hổng của phòng kế toán Hoa Phổ Huệ, chú gần như đã mất hết gia tài
mình tích cóp cả đời. Cháu không biết nên báo đáp đại ân đại đức của chú
ra sao, mà chú… cũng biết cháu không thể báo đáp nên mới quyết định rời
đi.”
Tạ Tề Phàm im lặng hồi lâu, vạt áo trước phấp phới trong gió.
Ngân Xuyên quỳ xuống, chậm rãi dập đầu trước ông: “Chúc chú Tạ lên
đường bình an.”
Tạ Tề Phàm vươn tay đỡ anh, mắt rơm rớm: “Chú già rồi, mệt rồi, muốn an
hưởng tuổi già, sống những ngày bình yên, không thể đi tiếp cùng cháu nữa.
Sau này chỉ dựa vào mình cháu thôi.”
Ngân Xuyên không đứng dậy, anh vẫn gục đầu xuống đất, nắng ban mai
chiếu lên mái tóc đen nhánh của anh.
“Tiểu Xuyên à,” Tạ Tề Phàm thở dài, “cháu có tư chất hiếm có, nếu vì
muốn báo thù mà để thù hận nuốt chửng tâm hồn, hoặc trở thành người bất
phân phải trái, điên cuồng vì tiền tài lợi ích thì quả thực là được một mất
mười. Cháu còn rất trẻ, là do chú đã dẫn cháu đi nhầm đường, mọi điều chú
làm cho cháu đều là trả giá cho tội nghiệt của chú. Chú không có tư cách
khuyên cháu quay đầu, có nói cũng không có tác dụng, nhưng tất cả đều có
cái số của nó rồi, vấn đề chỉ là sớm hay muộn thôi, mọi điều đã trải qua,
mọi trắc trở va vấp, mọi người, mọi chuyện cuối cùng đều là để khiến cháu
hiểu chính cháu hơn. Cháu hãy cứ làm chính mình đi.”
Nắng mai đậu trên mặt đất lạnh như băng, bao lấy đất như khói, trải trên đất
như lụa, tựa không nỡ chia lìa, nhưng bến tàu Hán Khẩu đã quá quen với
những yêu hận biệt ly, luôn có bước chân giẫm nát lên niềm lưu luyến, luôn
có cơn gió thổi tan mọi bịn rịn.
Ngân Xuyên nghiến răng, nước mắt lại không nghe lời, nhỏ từng giọt xuống
đất.
Hôm ấy anh đã làm một chuyện rất tức cười, sau khi rời bến tàu, anh tới
thẳng dinh thự nhà họ Phan, cho người nhét bốn con vịt vào lồng rồi một
mình lái xe đem chúng đi, chạy thẳng tới Than Trạch phía tây ngoại ô.
Xe lao đi vừa nhanh vừa xóc, lồng vịt đặt ở ghế sau, bốn con vịt sợ hãi, cứ
liên tục co rúm lại với nhau, cắn mổ lẫn nhau, kêu lên quàng quạc, khiến
anh phiền muộn tột cùng, dừng xe lại, thế là đám vịt không kêu nữa, xe vừa
lăn bánh, chúng lại tiếp tục om sòm.
Ngân Xuyên phì cười, rồi bắt đầu phá lên ha hả, động đến vết thương,
nhưng anh chỉ lo cười, cười đến mức nước mắt giàn giụa, trông lại như
không hề đau đớn.
Ôi, anh cười, nghĩ, sao tất cả đều đi, lại chỉ còn mình tôi ở đây.
Trăng tròn cuối thu lặng lẽ vươn mình lên từ phía chân trời.
Thượng hạ tứ phương, cổ vãng kim lai, thiên địa huyền hoàng, vũ trụ hồng
hoang