Nhiếp Tung nhiều ngày liền tra cứu trong cơ sở dữ liệu máy tính, lật xem hết các tác phẩm tranh được phục chế trong gần một năm, vẫn không tìm ra manh mối gì. Đây là di chứng sau buổi anh làm thuyết minh viên ở buổi triển lãm thành quả hôm đó, nói chính xác hơn, là sau khi gặp cô nữ du khách đã thuyết phục bé gái tắt đèn flash.
Lần đầu tiên anh nhìn thấy cô, không phải là kinh ngạc, cũng không phải là yêu từ cái nhìn đầu tiên, mà là cảm giác quen thuộc.
Nhiếp Tung không biết mình đã gặp cô ở đâu chưa, hay là từng thấy ảnh cô ấy, hoặc cũng có thể là cô ấy rất giống một nhân vật nữ trong bức cổ họa mà anh từng phục chế? Anh không rõ, vì thế cứ mãi tìm kiếm câu trả lời. Và việc nhiều ngày không thu hoạch được gì chẳng những không khiến anh quên được hình bóng nữ du khách kia, mà ngược lại, cảm giác quen thuộc đó cứ quanh quẩn trong đầu, khiến anh không thể yên lòng.
“Thầy Tiểu Nhiếp, lại đang tìm tranh à?” Một đồng nghiệp đi ngang qua, thấy anh vẫn còn ngồi trước máy tính, không nhịn được hỏi: “Rốt cuộc là cậu đang tìm bức nào thế? Tên tranh, tác giả, mã số, chẳng nhớ được cái nào sao? Hoặc tranh có điểm gì đặc biệt? Nói ra để mọi người cùng giúp tìm thử xem.”
Nhiếp Tung tháo cặp kính gọng đen xuống, bóp sống mũi: “Không nhớ được cái gì cả, đoán chừng chắc là một bức tranh cổ mà mấy năm gần đây tôi từng phục chế.”
“Thế thì khó rồi đấy! Tranh cổ mấy năm gần đây cậu phục chế đâu phải ít, giờ mà tìm từng bức thì khác gì mò kim đáy bể!”
Nhiếp Tung nhìn đồng hồ, đã hết giờ nghỉ trưa. Anh đứng dậy, vươn vai rồi quay lại bàn vẽ.
Trên bàn đặt một bức tranh cổ. Khi mới được giao vào tay Nhiếp Tung, nó là một bức tranh bị mốc, đổi màu, thậm chí nhiều chỗ đã giòn và hư hỏng. Sau quá trình rửa tranh và tách lớp vẽ, giờ đây nó đã sạch sẽ, chỉ còn chờ phục chế.
Nhiếp Tung đang thực hiện công đoạn “toàn sắc” cho bức tranh cổ (tức là dùng mực và bút để tô điểm, bổ sung những phần bị thiếu hụt trên tranh – một kỹ thuật phục chế sách và tranh cổ). Anh cầm bút lông, tỉ mỉ vẽ lại từng chi tiết trên lớp giấy vá ở phần tranh bị hư. Ánh nắng nhẹ nhàng chiếu qua khung cửa sổ, rọi lên bức tranh cổ đã ố vàng. Anh cúi thấp người, giữ cổ tay lơ lửng, cẩn thận tô màu, bên cạnh chỉ vang lên những tiếng sột soạt nhẹ nhàng.
Căn phòng chỉ có thể nghe thấy tiếng đầu bút vẽ lướt trên giấy, như một thế giới song song, khiến người ta quên mất thời gian.
Cho đến khi có người bước vào, sự yên tĩnh mới bị phá vỡ.
“Mọi người dừng tay một chút, tôi muốn giới thiệu với mọi người một chút.” Tổ trưởng phục chế thư họa – Trương Trạch Tân đưa hai người tiến lên trước mặt, giới thiệu: “Hai vị đây là chuyên gia từ Viện Nghiên cứu Địa chất, đến hỗ trợ chúng ta phân tích các loại khoáng chất đặc thù trong tranh thư họa cổ.”
Nói xong, tổ trưởng Trương liền để mọi người tiếp tục công việc, riêng chỉ gọi Nhiếp Tung – người vẫn đang chúi đầu toàn sắc mà không phản ứng gì: “Cậu lại đây một chút.”
Nhiếp Tung vòng qua mấy cái bàn, vừa ngẩng đầu liền sững sờ.
Doãn Hy nhận ra anh – người có vẻ ngơ ngác như vậy, gần đây cô chỉ mới gặp một người như thế, nên ấn tượng rất sâu sắc. Rõ ràng là Trương Trì cũng nhớ ra, bắt tay với anh và nói: “Thầy Nhiếp, hân hạnh, lần trước ở triển lãm thành quả đã gặp qua anh rồi.”
“Đã từng gặp rồi à? Vậy càng tốt. Nhiếp Tung, dẫn tiến sĩ Doãn và tiến sĩ Trương đến xem bức tranh đó.” Tổ trưởng Trương vừa phân công cho Nhiếp Tung, vừa đi về phía máy kiểm tra, nói lớn: “Nhiếp Tung, còn đứng ngây ra đó làm gì, mau qua đây!”
Nhiếp Tung thu lại ánh mắt đang dừng trên người Doãn Hy, cụp mắt bước theo.
Doãn Hy đi sau anh, liếc thấy vành tai đỏ ửng kia, không nhịn được khẽ mỉm cười.
Trên mặt bàn trải một bức tranh sơn thủy, tranh đã ngả vàng, có dấu hiệu bị mốc.
“Đây là tác phẩm thời Minh, qua kiểm tra tổng thể phát hiện trong tranh có vài chỗ sử dụng loại chất màu khoáng sản hiện đại gọi là ‘xám ô liu’.” Nhiếp Tung đã khôi phục lại sự tỉnh táo, trình bày rõ ràng về vấn đề gặp phải.
“Ý anh là chất màu này lẽ ra không nên xuất hiện trong một bức tranh thời Minh?” Doãn Hy không rành về hội họa, hiểu biết về tranh thư họa cổ lại càng ít, “Đã làm phân tích quang phổ chưa?”
Phân tích quang phổ X là một phương pháp rất phổ biến, Doãn Hy biết hiện nay nhiều bảo tàng lớn đã trang bị máy phân tích quang phổ cầm tay hoặc để bàn.
“Phân tích quang phổ trùng khớp với phán đoán của chúng tôi, nguyên liệu của màu xám ô liu là khoáng chất silicon-magie-niken, có nguồn gốc từ Vân Nam.” Vừa nói, Nhiếp Tung vừa đưa báo cáo kiểm định của bức tranh cho cô, cũng nhân cơ hội nhìn thẳng vào mắt Doãn Hy, “Dựa theo quan sát bằng mắt thường, những chỗ này có thể không chỉ có một lớp màu, vì vậy chúng tôi muốn biết thêm những loại khoáng chất nào đã được sử dụng.”
“Không xác định được các loại khoáng vật khác sao?”
“Khó tránh khỏi bỏ sót, như cô biết đấy, cơ sở dữ liệu quang phổ của chúng tôi vẫn chưa đầy đủ.”
Nhiếp Tung nói không sai. Dụng cụ quang phổ tại bảo tàng có thể tiến hành kiểm tra toàn diện hiện vật, thông qua so sánh dữ liệu, phân tích phân nhóm và các chứng cứ bổ trợ khác để xác định chất màu, nguồn gốc và khoáng vật sử dụng trong tranh cổ. Tuy nhiên, việc nhận định và phân tích liên quan đến khoáng vật thì vẫn phải dựa vào thiết bị của viện nghiên cứu địa chất – vốn chuyên nghiệp và có cơ sở dữ liệu mẫu phong phú hơn nhiều.
Doãn Hy ra hiệu cho Trương Trì kết nối thiết bị mang theo, rồi đưa tay nhận lấy tờ báo cáo. Cô làm việc đâu vào đấy, biểu cảm điềm đạm, nơi khóe môi luôn phảng phất nụ cười nhẹ nhàng.
Giống quá, thật sự giống quá.
Cảm giác quen thuộc đầy áp lực lại một lần nữa ập đến, Nhiếp Tung bất giác siết chặt tờ giấy trong tay.
Ngón tay vừa chạm vào tờ đơn, Doãn Hy không hề để ý, theo phản xạ liền rụt lại. Một tiếng hít khí ngắn vang lên, cô quay đầu lại thì thấy một vệt máu hiện ra trước mắt.
“Xin lỗi.” Doãn Hy nhanh chóng lấy một miếng bông tẩm cồn dùng một lần từ trong túi ra, xé ra và đưa cho Nhiếp Tung. Thấy anh lau sạch vết thương, cô lại lấy thêm một miếng băng cá nhân, thành khẩn xin lỗi: “Thật sự xin lỗi anh.”
Nhiếp Tung giơ ngón tay đã được dán băng cá nhân lên, thản nhiên lắc đầu: “Không sao đâu.”
Chỉ là một sự cố nhỏ, không ai để tâm đến.
“Sư muội, em qua đây xem.” Kiểm tra của Trương Trì đã có kết quả, dữ liệu được đồng bộ hiển thị trên thiết bị cầm tay, “Ngoài khoáng vật silic-magie-niken, còn có vài loại hóa chất khác nữa.”
Doãn Hy liếc qua, đọc: “Titan dioxit, chì cromat, nguyên tố carbon, còn có…”
“Titan trắng, vàng trung crom, carbon mềm, cái cuối cùng chắc là màu chanh.” Giọng Nhiếp Tung theo sát ngay sau, anh nhanh chóng phản ứng lại: “Bốn màu này có thể pha ra màu xám ô liu.”

“Chuyện này thật thú vị, lần đầu tiên tôi gặp trường hợp như vậy, hai hệ thống chất màu khác nhau cùng xuất hiện trên một bức tranh cổ thời Minh…” Tổ trưởng Trương lại gần bức tranh, cúi người quan sát một lúc, rồi lạnh giọng nói: “Đến lúc phải điều tra lịch sử phục chế của bức tranh này rồi.”
Doãn Hy nhận ra đây không phải chuyện nhỏ, nghiêm giọng hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì vậy?”
“Chất màu khoáng hiện đại và chất màu công nghiệp cùng xuất hiện trên một bức tranh thời Minh,” Nhiếp Tung vẻ mặt nghiêm trọng, thở dài, “Về cơ bản là tranh đã bị hủy rồi.”
“Tranh cổ được lưu giữ trong bảo tàng mà có thể tùy tiện phục chế sao?”
“Bức tranh này trước đây không thuộc bảo tàng chúng ta, vì lý do lịch sử đã qua tay nhiều nơi, nhiều người xử lý, mới được chuyển đến gần đây thôi. Ai ngờ lại thành ra thế này, haizz…” Nhìn thấy một bức tranh đẹp bị phá hỏng như vậy, tổ trưởng Trương không khỏi đau lòng.
Khi Nhiếp Tung tiễn Doãn Hy và Trương Trì ra ngoài, nét mặt nghiêm túc, trông như đang có tâm sự nặng nề.
“Được rồi, đến đây thôi.” Trương Trì quay lại bắt tay tạm biệt anh, “Thầy Nhiếp, tạm biệt.”
“Xin đợi một chút—” Nhiếp Tung gọi Doãn Hy lại, khẽ ho một tiếng có phần lúng túng, “Tiến sĩ Doãn, có thể cho tôi xin số điện thoại được không? WeChat cũng được.” Anh chăm chú nhìn biểu cảm của Doãn Hy, thấy cô cười nhẹ không nói rõ ràng, liền bổ sung, “Để tiện liên hệ công việc thôi.”
“Được chứ, sư huynh, cho anh ấy WeChat đi.” Doãn Hy nghiêng đầu nói với Trương Trì.
Trương Trì nhìn hai người đầy hứng thú, trêu chọc: “Sư muội, đừng bắt nạt người thật thà chứ.”
Doãn Hy nói “Được thôi”, một lọn tóc ngắn trượt từ vai xuống má, đôi hàng mi khẽ lay động mang theo ý cười.
Nhiếp Tung đứng chết trân tại chỗ, trái tim vốn đã hồi hộp giờ càng như muốn nhảy ra ngoài.
Doãn Hy lôi từ túi ra một thỏi son, đọc một dãy số rồi nhướng mày nhìn anh: “Nhớ chưa?”
Nhiếp Tung lắp bắp gật đầu, vừa ngẩng lên thì thấy cô đang nhẹ nhàng tô son, đôi môi từng chút một trở nên bóng bẩy, ẩm ướt. Anh vô thức xoa xoa tai bắt đầu đỏ lên, cúi đầu chỉnh danh bạ liên lạc.
“Số điện thoại, cũng là WeChat.”
Nhiếp Tung không dám ngẩng đầu, lặng lẽ tìm cô trong danh bạ và gửi lời mời kết bạn, mãi đến khi tim đập bình ổn trở lại mới dám nhìn sang.
“Tiến sĩ Doãn, ngoài buổi thuyết trình ở bảo tàng hôm đó, chúng ta từng gặp ở đâu chưa?” Anh mím môi, lấy hết dũng khí nhìn vào mắt cô, “Tôi thấy cô rất quen.”
“Cạch” một tiếng, Doãn Hy đóng nắp thỏi son lại. Cô chăm chú nhìn Nhiếp Tung một lúc lâu, nhìn đến mức tai anh đỏ như nhỏ máu. Mở miệng lại hỏi một câu chẳng liên quan: “Thầy Nhiếp, mạo muội hỏi một câu, anh năm nay bao nhiêu tuổi?”
“Hai… hai mươi lăm.”
25, nhỏ hơn cô 2 tuổi. Doãn Hy không khỏi so sánh trong lòng, nhưng vẻ ngoài vẫn bình tĩnh như tuyết. Cô nhìn người đàn ông cao hơn mình nửa cái đầu, quả táo Adam nơi cổ anh khẽ động, cô nhướng mày: “Thầy Tiểu Nhiếp, bây giờ người ta không còn tán gái kiểu đó nữa đâu.”
Nhiếp Tung nghĩ mãi cũng không hiểu được ý cô, nhất là câu “thầy Tiểu Nhiếp”, dường như cô cố tình nhấn mạnh chữ “Tiểu”, giọng điệu nhẹ nhàng mà đầy ẩn ý.