Chiếc đại chiến hạm rốt cuộc cũng đã đuổi đến gần, chỉ còn cách nửa dặm, đang dần dần tiếp cận với thuyền của Khấu Trọng.
Bốc Thiên Chí thần sắc ngưng trọng nói:
- Chỉ cần chúng ta cầm cự được hết hôm nay, ta tin tưởng có thể bỏ rơi chúng.
Khấu Trọng ngần ngừ đáp:
- Chí thúc lần này đưa ra kỳ mưu trốn tránh rất hợp lý. Tiểu điệt đã xem lại ánh trăng đêm nay khá thuận lợi, đen trắng khó phân biệt, rất dễ trốn tránh.
Bốc Thiên Chí đầy tin tưởng nói:
- Chỉ nhìn thế gió biến hóa, ta cảm thấy chắc chắn tiết trời sẽ thay đổi rất nhanh, lúc ấy ngoài biển tối đen không trăng sao, sóng to gió mạnh, không chìm thuyền là may, còn mong gì truy lùng địch nhân.
Khấu Trọng nghi ngờ, nhìn về hướng đầu thuyền, vẫn biển êm gió vẫn lặng, thuyền địch thì vẫn cứ từ từ truy đuổi, chỉ thấy mấy ngọn sóng bạc đầu lăn tăn vỗ, đoạn thở dài:
- Hà, hy vọng dự đoán của Chí thúc đúng, chúng ta không bị vỡ thuyền.
Gã tưởng tượng lại cảnh tượng khi xưa cùng Từ Tử Lăng đục thuyền đánh Hải Sa Bang, bất giác động lòng nhớ gã bằng hữu nối khố ấy.
Bốc Thiên Chí nói:
- Lúc thế gió chuyển mạnh, là lúc chúng ta có cơ hội duy nhất để đổi hướng thành công, thuận theo hướng gió chạy đi. Nhược bằng để gió thổi vào cả hai bên mạn, gặp lúc gió thổi mạnh thuyền sẽ bị xoay tít, thậm chí vỡ tan. Lúc ấy thuyền này của chúng ta nhỏ gọn, vượt sóng linh hoạt, ít bị ảnh hưởng của sức gió hơn thuyền truy kích, nên sẽ dễ dàng bứt đi.
Khấu Trọng nhìn xa xa về phía chân trời, thẳng phía Tây nơi đất liền mặt trời vàng ửng đang từ từ hạ xuống, cười nói:
- Chí thúc nắm vững bao nhiêu thành về thời tiết biến đổi tiếp theo đây?
Bốc Thiên Chí giật mình nói:
- Chỉ nắm được nửa thành.
Khấu Trọng ngạc nhiên quay nhìn về phía chiếc thuyền đang truy kích. Nhìn bề ngoài chiếc lâu thuyền chiến hạm đang đuổi thẳng đến, kì thật5; tới gần đoạn nước xoáy, chiến thuyền hoàn toàn lợi dụng sự đổi chiều của gió biển, mỗi bước thay đổi phương hướng đều rất vi diệu, tốc độ tăng đột biến vọt lên, thật là kỹ thuật điều khiển thuyền thần kỳ, mọi người cùng nhìn mà thán phục.
Chiến hạm của địch cuối cùng cũng tới gần, vòng uy hiếp nguy hiểm tăng lên đáng kể, thuyền của Khấu Trọng chuẩn bị vũ khí phản kích như nỏ máy, máy bắn đá, xếp đặt hết lên boong.
o0o
Từ Tử Lăng cầm thanh Bá Đao và quyển bí kíp của Nhạc Sơn để lại, đào một hang đất nhỏ, đặt cả hai vào rồi nhặt đất lấp kín. Sau khi đã ghi nhớ chỗ chôn, gã sửa lại y phục rồi nhanh chóng rời đi.
Đối với hung vật nhiễm đầy huyết tanh này, hắn một lòng chán ghét, không muốn có sợi dây liên hệ nào. Mọi việc chỉ là ngẫu nhiên do bởi những gì Sư Phi Huyên và Thạch Thanh Tuyền cùng an bài.
Gã chỉ muốn tự mình tìm ra phương pháp trừ đi Thiên Quân Tịch Ứng, sau đó gã không nghĩ ra lý do gì để lưu lại nữa.
Từ Tử Lăng tịnh không oán trách Thạch Thanh Tuyền vô tình, mà gã chỉ trách mình ngu xuẩn không biết tự lượng, người như gã thì lấy gì để mỹ nữ đa tài đa nghệ này rủ lòng đây.
Giờ đây gã tự nhận thấy sở dĩ nàng tấu khúc tiêu nọ bất quá là để tạ ơn gã đã bạt đao tương trợ, nói cho cùng cũng để gã hiểu được là chỉ còn gặp nhau một lần này nữa thôi.
Nghĩ đến đấy gã tưởng chừng như muốn bật tiếng cười.
Nhưng vô luận như lần mới gặp ở Thành Đô, hay gặp tại đêm trăng trên tiểu lầu, hắn đều tự mình cảm giác thấy điều gì đó.
Thật sự có cái cảm giác khác thường.
Bể tình vô hạn, khổ hải vô biên!
Nói cho cùng, tình cảm nam nữ chính là niềm vui trong nhân sinh. Nhưng trong chữ tình đối với cả Sư Phi Huyên và Thạch Thanh Tuyền đại khái là không tưởng, nói gì đến có kết quả tốt, nhìn hạng người như Âu Dương Hi Di hay Vương Thông thì thấy đều là tiền lệ chẳng ra gì.
Từ Tử Lăng ngầm hạ quyết tâm, dù lần sau có gặp hay không, với Sư Phi Huyên cũng như Thạch Thanh Tuyền nhất định không còn vọng niệm.
Suy nghĩ thấu đáo xong gã có cảm giác được giải thoát, từ đầm bùn đi ra đã khôi phục trạng thái tiêu sái khoát đạt thường ngày, đầu óc thanh thản, suy nghĩ nhanh nhẹn hẳn.
Từ lúc cáo biệt Thạch Thanh Tuyền đêm ấy, quay lại khách sạn gã đã thức cả đêm đọc hết quyển bí kíp của Nhạc Sơn vài lần, sợ rằng sau này không còn dịp nghiên cứu, nên gã đã dụng tâm nhớ hết trong lòng.
Trong sách của Nhạc Sơn, trừ những phần ghi lại những ân oán đặc biệt sâu nặng của mình, chủ yếu chép công phu thời trẻ đã dùng là Bá Đao đao pháp. Phần về sau thì ghi lại cách thức tập luyện "Hoán Nhật Đại Pháp", đích thị là tâm pháp độc môn chí cao thâm.Tuy chí cao đến trời, nhưng giờ người đã không còn, tiếc thay.
Phần đao pháp đầu thật dữ dội, lại hung ác vô luân, chính là bốn mưoi chín thức Bá Đao, hoàn toàn trái với ý thích của Từ Tử Lăng, chỉ có "Hoán nhật đại pháp" thâm trầm sâu sắc làm hắn thích thú, gã càng nghĩ càng nhận ra đây là môn công pháp thâm ảo huyền diệu.
Theo lời Nhạc Sơn, môn công pháp kì dị này do ông ta dùng bí pháp thâm ảo của Bá đao trao đổi với một tăng nhân khổ hạnh của Thiên Trúc mà lấy được, về sau ông ta đổi tên môn này thành Hoán nhật đại pháp.
Nếu Nhạc Sơn luyện thành, hẳn ông ta đã được thoát thai hoán cốt, tẩy cân dịch tủy, chính là cứu lại được tính mạng. Tuy nhiên do thương thế quá nặng, công lực còn quá ít, nên nội công không thể khôi phục được.
Cho đến tận lúc chết, Nhạc Sơn vẫn không luyện được một thành, đành ôm hận mà chết.
Qua quyển bí kíp, Từ Tử Lăng phần nào hình dung ra việc mẫu thân của Thạch Thanh Tuyền, kỳ nữ Bích Tú Tâm, đã thường xuyên đến gặp Nhạc Sơn, giúp ông ta nghiên cứu kỳ công Hoán nhật đại pháp, nên Nhạc Sơn mới có những kiến giải sâu sắc về môn công phu này trong di quyển.
Tóm lại, Hoán nhật đại pháp có thể phân thành sáu bậc, tuần tự cao dần trong quá trình tu luyện “khí, mạch, luân”, đem tiềm lực sinh mệnh con người phát xuất ra, kết hợp với nguồn năng lượng trong trời đất, vượt cả thiên địa tạo hóa, đúng là thâm bất khả trắc.
Cuối quyển bí kíp là câu chú quan trọng nhất của Nhạc Sơn “Ngã xong cần đứng dậy, bại rồi mới thành công”. Hai câu này có thể cho thấy ông ta tuy bại nhưng thủy chung vẫn không nản chí.
Có thể thấy môn công phu này sâu xa huyền diệu, cho đến bậc trí tuệ hơn đời như Bích Tú Tâm cũng chưa hiểu hết được hoàn toàn.
Từ Tử Lăng thử qua đệ nhất biến thì thấy ẩn trong chưởng tâm có dấu hiệu kì lạ, thiên hạ ngoại trừ gã với Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn ra có ai biết kinh nghiệm kì diệu với Hòa Thị Bích đâu để nhận ra. Gã thấy mình bắt đầu đi đúng hướng.
Nghĩ đến đây, trong tâm thức chuyển động, đi vào trạng thái vô ngã.
o0o
Dưới ánh mắt sắc nhọn của Khấu Trọng, tình trạng trên boong tàu địch hiện ra rõ ràng, cả vẻ mặt cừu hận sung mãn của chủ tướng bên địch cũng nhận ra hết.
Chỉ huy thuyền nọ mặc một bộ áo đại bào to rộng như cánh bướm, đầu đội mũ cao, đích thị là võ sĩ Cao Lệ, ngoài ra bên cạnh còn có một nữ nhân.
Bốc Thiên Chí lập tức chú ý đến bố trí của đối phương tại đầu thuyền, chính là hai cỗ máy bắn đá lớn, uy lực cực mạnh.
Điều tốt duy nhất là tiết trời đang dần biến đổi, mặt biển yên lặng đã dần nổi sóng lớn bạc đầu, sóng to gió lớn từ bốn phương tám hướng ập đến, hai bên đều bó chân bó tay, chỉ có thể lựa theo chiều gió giữ cho thuyền khỏi lật, không còn cách nào quyết định hướng đi của thuyền nữa.
Hướng Tây đất liền chỉ còn mờ mờ sau làn mây, tứ phía sóng lớn ập tới, mặt biển xanh thẫm sâu thẳm dậy lên những bọt sóng bạc màu, gió biển thổi hơi lạnh thấu xương, phả mùi mặn mòi ẩm ướt, mang lại cảm giác đầy nguy hiểm.
Ẩm!
Từ mạn trái hạm thuyền lớn ít nhất gấp đôi kia bắn ra một khối đá lớn. Khối đá nặng trên trăm cân vượt qua không gian giữa hai bên, hướng thẳng tới thuyền Khấu Trọng. Không ngờ đúng lúc khối đá bắn ra khỏi máy, một đợt sóng lớn tràn lên làm xoay thân thuyền lớn, càng làm tăng sức đẩy của khối đá, thẳng hướng vượt qua mạn phải thuyền Khấu Trọng rơi xuống lệch mục tiêu ngoài ba trượng.
Bên Khấu Trọng mọi người cùng vui mừng hoan hô vang dội.
Bốc Thiên Chí cùng Khấu Trọng tức thì cùng nhìn nhau, biết rằng thuyền mình đã nằm trong vùng bắn đá của địch nhân. Chỉ sợ địch nhân tập trung toàn bộ hỏa lực bắn phá, trên vùng biển nguy hiểm này, đảm bảo thuyền Khấu Trọng sẽ lập tức tan tành, không còn một cơ hội chạy thoát.
Ẩm!
Lại một tảng đá nữa bắn lên nhắm vào đuôi thuyền Khấu Trọng, nhưng thuyền đã nhanh nhẹn tránh được trong gang tấc, làm vang lên những tiếng hoan hô nối tiếp.
Điều tồi tệ nhất là giờ không còn nước xoáy, hai thuyền đều dựa vào đuôi thuyền nghênh gió mà tiến, chuyển thành thế truy đuổi thẳng hàng, vấn đề chỉ là đến lúc nào thì đối phương bắn trúng thuyền mình mà thôi.
Sắc trời dần dần tối lại.
Khấu Trọng cười lớn hỏi:
- Đã phóng yên vụ (khói mù) ra được chưa?
Bốc Thiên Chí ngửa mặt xem hướng gió bảo:
- Phóng ra bây giờ cũng bị thổi bay đi thôi, chúng ta đang ở cuối hướng gió, vô luận phóng tro phóng khói ra, chỉ bị thổi lại chính mình thôi.
Trong lúc nói chuyện, thuyền địch đã lại gần thêm vài trượng, chỉ còn cách bất quá chừng hai mươi trượng, cự li thật là gần.
Trên boong thuyền địch toàn bộ võ sĩ đều giương cung lắp hỏa tiễn, chỉ cần gần thêm chút nữa, tất cả cùng phóng tên, thuận theo chiều gió bay lại, hậu quả thật không tưởng tượng nổi. Đối phương cứ hai người làm một tổ, một người bắn một người cấp tên châm lửa, thật là đã được huấn luyện chu đáo.
Khấu Trọng kêu lớn:
- Hạ buồm!
Bốc Thiên Chí kiên quyết lắc đầu đáp:
- Chúng ta sẽ lập tức bị bắt kịp, phải tính cách khác mới được.
Khấu Trọng giậm chân chỉ mặt tướng trên thuyền kia quát: đ
- Tên tiểu nhân kia, có dám tiến lại đây, cùng Khấu Trọng ta đơn đả độc đấu hay không.
Tướng kia cười lớn đáp lại:
- Tên tiểu tặc Khấu Trọng vẫn được người ta nhắc đến đấy ư? Không ngờ dám lớn lối đến thế.
Chợt một giọng nói mang khẩu âm Cao Lệ pha lẫn miền nam cất lên:
- Đã nghe Khấu huynh đao pháp cái thế, Cao Lệ Kim Chính Tông vẫn mong tứ giáo.
Khấu Trọng cùng Bốc Thiên Chí đồng thời biến sắc, hai người không hề biết Kim Chính Tông ở Cao Lệ có địa vị thế nào trong võ lâm.
Nhưng chỉ nghe y nói chuyện trung khí đầy rẫy, khí độ trầm hòa, giữa biển trời sóng gió cuồng loạn mà tiếng nói vẫn rõ ràng như sát bên tai, đã hiểu người này thật đã đạt đến mức nhất đại tông sư.
Khấu Trọng cười ha hả:
- Xin hỏi Kim đại ca thiện dụng binh khí gì?
Trên thuyền địch viên chỉ huy là một trung niên văn nhân tiêu sái, thân hình vững vàng như cổ tùng vươn lên trời cao, vẫn giữ vẻ tuấn mỹ bất quần mỉm cười đáp:
- Bất cứ binh khí nào cũng không phân biệt, chỉ trừ có không dụng đao được thôi.
Khấu Trọng chỉ biết nhìn trời cười khổ:
- Đúng là bữa nay gặp đối thủ khó chơi rồi. Ta vốn tính chờ thuyền đối phương lại gần nhảy sang rồi đánh loạn lên một trận, hiện tại cách này không dùng được nữa, lại phải tìm cách khác thôi.
Bốc Thiên Chí ngạc nhiên hỏi:
- Kế gì vậy?
Khấu Trọng cười nhẹ đáp:
- Là thứ đĩnh lôi do Lỗ Diệu Tử truyền lại.
o0o
Vào lúc mặt trời hạ dần xuống phương Tây, Từ Tử Lăng đã vào sâu trong La Hán Đường của Đại Thạch Tự. Trong đường những vết tích tan hoang trong trận đấu lần trước đã được dọn dẹp sạch sẽ, ba trăm pho tượng La Hán lại khôi phục dáng vẻ như cũ. Tuy nhiên, Từ Tử Lăng cảm thấy có điềm bất thường. Sau khi xem qua di quyển của Nhạc Sơn, gã có cảm giác thâm sâu hơn về các pho tượng La Hán, đồng thời với Bất Tử Ấn Quyển, gã cũng bắt đầu hiểu ra ý nghĩa đích thực của chữ Ấn. Nhạc Sơn đã ghi lại giải thích của Bích Tú Tâm về phật gia thủ ấn. Theo Bích Tú Tâm thì thủ ấn này có nghĩa là "ngoại tắc thông vũ trụ (bên ngoài thì thông với vũ trụ), nội tắc quán ngũ tạng lục phủ và kì kinh bát mạch (bên trong thì bao gồm cả lục phủ ngũ tạng và kì kinh bát mạch). Chỉ khơi khơi vài câu giải thích này đã mở rộng chân trời nhận thức của Từ Tử Lăng về thủ ấn.
Trong quá khứ, mỗi lần cùng người đối địch, tự nhiên gã có thể phát huy chân khí trong mình, kết hợp cùng các dạng các thức thủ ấn một cách vô thức, hiện tại đọc xong di quyển của Nhạc Sơn, gã cuối cùng đã hiểu được ra.
Trong thân, khẩu, ý, ba pháp môn tu tập này, thủ ấn chính là "thân ấn", chính là phần tối trọng yếu nhất. Năm ngón tay trong thủ ấn chủ về "địa, thủy, hỏa, không, phong", tay phải là trí tuệ nhanh nhẹn biến hóa, tay trái là thân định trầm ổn. Qua mười ngón trên hai tay chứa cả nội ngoại kinh mạch liên thông, tu luyện nội thể là "khí, mạch, luân", tiến hành 6 bước thành tựu tu hành, chính là tinh nghĩa của Hoán Nhật Đại Pháp. Nhật chính là Đại Nhật Như Lai, hoán nhật có ý thay thế Đại Nhật Như Lai, thâm ý ám chỉ bản thân thành Phật.
Từ Tử Lăng đương nhiên không có ý định thành Tiên thành Phật gì hết, chỉ là đối với bí pháp đến từ Thiên Trúc này rất có hứng thú, tuyệt diệu nhất là chính là khả năng thiên y vô phùng rất thích hợp với đường lối tự thân tu tập võ đạo của gã.
Nhạc Sơn tay quen dùng Bá Đao, đối với việc học tập thủ ấn tự nhiên khó khăn như ngắm trâu bên kia núi, nói chi đến việc cải biến nội công bản thân theo tập quán đã ăn sâu, thật khó khăn vô cùng. Về phương diện này Từ Tử Lăng thành công dễ dàng hơn nhiều.
Khí, mạch, luân trong Hoán Nhật Đại Pháp chính là ngũ khí, tam mạch, thất luân, là hệ thống tu luyện nội công của Thiên Trúc, so với kì kinh bát mạch của võ lâm Trung Nguyên tuy giống mà cũng có những điểm khác nhau xa.
Ngũ khí gồm có mệnh căn, thượng hành, bình, biến hành và hạ hành, chính là đường lối vận động của nội khí ngoại khí tam mạch thất luân.
Tam mạch gồm trung, tả, hữu. Trung mạch là nơi tập trung kinh mạch toàn thân, nối với tủy sống, chính là đốc mạch của Trung thổ.
Tả hữu nhị mạch bắt đầu từ cung Cao Hoàn (trên đỉnh thóp), đi qua trung mạch, quán thông với thất luân.
Thất luân chính là Khiếu huyệt của Trung thổ, từ trên xuống dưới có Đính luân (đỉnh đầu), Mi Gian luân (tam tinh), Hầu luân (cổ họng), Tâm luân (tim), Tề luân (rốn), Sinh Thực luân (bộ phận sinh dục) và Hải Để luân (bàng quang), luân cuối cùng Hải Để luân tức là hội âm huyệt của Trung thổ.
Những phương pháp tu hành huyền ảo này, Từ Tử Lăng chỉ xem qua đã hiểu rõ, hiện tại chỉ còn vấn đề thực hành thôi.
Các tượng bên trong La Hán Đường này đều do Thiên Trúc thánh tăng Cưu Ma La Thập họa tượng thiết kế, tự nhiên với Hoán Nhật Đại Pháp có tác dụng phối hợp kỳ diệu.
Từ Tử Lăng chắp tay sau lưng từ từ tiến đến bên cạnh một tượng La Hán, dụng tâm xem xét. Pho tượng này có tổng cộng 6 cánh tay, hai tay giơ ngang hai bên thân tả hữu, hai tay hợp lại đưa quá đầu, hai tay còn lại nắm thành quyền giao thoa công kích, mục tiêu chính là mi nhãn, dùng ngón cái đâm vào mi tâm. Nét mặt nhử ẩn như hiện.
Nếu là trước đây, hắn chỉ thấy đây là một pho tượng phật, hiện tại đương nhiên đã hiểu ra đây là thủ ấn, quán thông mi gian luân, tâm luân và đính luân tam khí. Điểm quan trọng nhất là đã làm rõ được quan hệ giữa thủ ấn và khiếu luân. Trong số ba trăm pho tượng La Hán, chỉ có khoảng mười pho có nhiều tay, hợp lại thành bốn trăm thế tay hoàn toàn khác biệt, đối với Từ Tử Lăng, như kẻ bần cùng sắp chết gặp được bảo khố đầy tay, gã nổi lên cảm giác vô cùng hoan hỉ, thật không bút nào tả xiết.
Đột nhiên, gã ngộ được cơ bản công phu nhập môn Luân vi nhất chủng của Hoán Nhật Đại Pháp, lại có thể khai phóng cho bản thân một bí khiếu của Phật môn, bảo sao chẳng coi những pho tượng La Hán này như bảo tàng trân quí.
Lòng thật của Thạch Thanh Tuyền như thế nào, tình ý của Sư Phi Huyên thật sự ra sao, hoàn toàn không còn quan trọng bằng phát hiện này nữa.
Bất giác gã đưa hai chưởng chập nhau, giữa hai chưởng tâm trống rỗng, như đóa hoa sen nở, tiếp theo đưa hai bàn tay vươn lên trên như rẽ nước, đột nhiên lại tách ra thành hai tay xoay lại mười ngón giao nhau, biến hóa trở lại đúng như thủ ấn.
Mọi suy nghĩ đã thông suốt, vạn niệm qui nhất.
Hư vô xa thăm thẳm, bát ngát trong mờ ảo, không còn phân cách nội ngoại, trong hư cực thật yên tịnh, pháp luân trục trong thân nội lại chuyển động, tất thảy Trường Sinh Quyết, Hòa Thị Bích cùng Hoán Nhật Đại Pháp và thủ ấn cùng hợp nhất, nhập vào thân thể, trong thời khắc này, gã cảm nhận được nhân thiên hợp nhất.
o0o
Chiếc khoái thuyền mang bọn Khấu Trọng trên boong vẫn tiến thẳng về phía biển động sóng gào. Nhìn lại phía sau, đứng tại đuôi thuyền chính là Khấu Trọng giậm chân thực mạnh, đầu thuyền lập tức vọt lên cao, lại hồi phục trạng thái quân bình, theo sóng xoay lại đúng hướng gió từ đất liền thổi tới, lại thay đổi phương hướng xoay ngang ra, tựa như vượt lên đỉnh sóng hướng tới thuyền địch xiên xiên lướt qua.
Cả hai bên địch ta đều ngẩn người ra ngắm kì cảnh, mắt mở rộng miệng há to. Chiếc đĩnh lôi này thật sự trong mơ Lỗ Diệu Tử cũng chưa nghĩ đến, chỉ là do Khấu Trọng vô kế khả thi chợt nghĩ ra phương pháp giải nguy này, ban đầu cũng chưa tin tưởng lắm, chỉ là dựa vào đặc tính của sóng lớn, lập tức nghĩ ra phương pháp phản kích. Đến giờ phát giác khả năng lợi dụng thuyển nhỏ vượt sóng hoạt hành, tức thì dũng khí tăng lên rất nhiều, chân sau vận kình, đầu thuyền lập tức cải biến phương hướng, đón đợt sóng mới đang nhanh chóng ập đến, nhanh chóng vọt qua thân sóng, lại vượt lên đỉnh ngọn sóng này, xiên xiên nghênh hướng gió thuận mang theo đại lâu thuyền kia, đâm thẳng tới tựa như một mũi tên. Viên chỉ huy xem cách điều khiển thuyền, lập tức nhận ra âm mưu của Khấu Trọng.
Nếu khoái đỉnh kia theo Khấu Trọng điều khiển nương thế sóng ngạnh tiếp với lâu thuyền này, thì chẳng phải trái ngược với lẽ thường lắm sao?
Không thấy bất cứ biểu hiện gì, Khấu Trọng chợt nghe thấy một mệnh lệnh phát ra bằng tiếng Cao Lệ, rồi tất cả tiễn thủ đều hướng về phía Khấu Trọng đồng loạt phát tên, đều là cung cứng nỏ mạnh, tên lao vun vút.
Khấu Trọng ha hả cười lớn:
- Các ngươi quên là tên này đều được quấn vải tẩm dầu rồi sao.
Vẫn không thèm né tránh, Khấu Trọng vận khí hộ thể, mặc cho từng đợt tên tới tấp hướng tới phủ kín boong thuyền và thân mình, thậm chí không thèm động đậy lông mày chút nào.
Bốc Thiên Chí cùng mọi người nín thở toát mồ hôi nhìn cảnh tượng ghê gớm ấy, chỉ khi thấy Khấu Trọng không hề hấn gì, mới bật ra được tiếng hoan hô vang dội. Hai thuyền đã tiến lại rất gần nhau, chỉ còn cách chừng hai trượng là chạm tới mạn trái thuyền địch, từ phía ấy truyền lại tiếng gió rít vang động, là Kim Chính Tông đột ngột từ trên cao hạ xuống, tay cầm trường mâu, giả như trực tiếp công kích Khấu Trọng, giữa đường lại ngầm đổi hướng, ban đầu hướng vào phía đầu thuyền kia sẽ va chạm với thuyền mình, sau lại đổi nhằm đúng điểm yếu thuyền Khấu Trọng phóng tới.
Khấu Trọng cười lớn
- Đã quá muộn rồi.
Chân lập tức giậm mạnh, khoái thuyền chợt lại tăng tốc, hắn lập tức rời thuyền như viên đạn, lăng không nhằm thẳng hướng Kim Chính Tông phóng lại.