Trên bờ có gần trăm xe chở hàng hóa. Hàng hóa lên bờ lập tức được một đám đại hán ăn vận gọn ghẽ khác đón vào các thùng xe trong lùm cỏ rậm rạp. Hai nhóm gộp vào hơn bảy trăm người, thành một khối ầm ầm như chợ.
Hầu Hy Bạch ghé vào tai Từ Tử Lăng hỏi nhỏ:
- Một bọn là Hải Sa bang, bọn còn lại là thần thánh phương nào vậy?
Ánh mắt Từ Tử Lăng dán vào đám người trên bờ. Người gây sự chú ý nhất là một nữ nhân trẻ tuổi sánh vai bên một gã thanh niên cao to tuấn tú, thái độ mập mờ. Bên cạnh có một ông già uy mãnh, non nửa mặt bị râu ria che phủ. Hắn đang nói với Du Thu Nhạn, nhưng vì cách một nhánh sông nên dù công lực Từ Tử Lăng không bị hao tổn, cũng không thể nghe ngóng được gì.
- Là người của phía Ưng Dương lang tướng Lương Sư Đô. Gã trẻ tuổi có vẻ ngạo mạn ấy là Lương Thuấn Minh, con trai của Lương Sư Đô; lão già và cô gái là Thẩm Nãi Đường, anh của huynh đệ kết giao với Lương Sư Đô là Thẩm Thiên Quần, và con gái Thẩm Vô Song. Giao dịch này gần như có thể khẳng định là do Thẩm Thiên Quần ở giữa xe chỉ luồn kim.
Hầu Hy Bạch lộ ra thần sắc cổ quái, lẩm bẩm:
- Lương Sư Đô? Lương Sư Đô?
Từ Tử Lăng ngạc nhiên hỏi:
- Lương Sư Đô có vấn đề gì? Hy Bạch không phải không biết hắn chứ! Lương Sư Đô và Lưu Vũ Chu đều là chó săn cho người Đột Quyết, cũng là sư huynh đệ đồng môn.
Hầu Hy Bạch đáp:
- Ta từng nghe Thạch sư phụ và An Long nói đến cái tên này. Lúc đó ta chỉ có hai ba tuổi gì đó, khi ấy Lương Sư Đô vẫn chưa nổi danh ai ai cũng biết như hiện nay, nhưng ta không thể nhớ nổi nội dung bọn họ nói lúc đó. Chỉ có cái tên Lương Sư Đô nghe rất lọt tai, cho nên ta có ấn tượng đặc biệt sâu sắc.
- Như vậy có thể thấy, Lương Sư Đô nhiều khả năng có quan hệ với Thánh môn của huynh, thậm chí là người trong Thánh môn, lời Hy Bạch nói khá hữu dụng.
Hầu Hy Bạch hỏi:
- Thứ trong hòm phải chăng là hỏa khí?
Từ Tử Lăng đáp:
- Khả năng rất lớn là vậy, vì so với thứ mà chúng ta trộm được, hình dạng và trọng lượng đều tương tự. Hỏa khí của Giang Nam có tiếng nhất, nếu theo đó mà buôn đi bán lại, có thể kiếm bộn.
Hầu Hy Bạch trầm tư:
- Trừ phi vào hoàn cảnh đặc biệt, nếu không hỏa khí không có tác dụng lớn. Lương Sư Đô ở xa trăm núi ngàn sông như vậy, đến đây mua hàng, lại phải liều lĩnh, hết sức đem về phương Bắc, vì sao nhỉ?
Từ Tử Lăng trầm ngâm đáp:
- Theo như ta đoán thì đám hỏa khí này không phải là muốn đưa về địa bàn của Lương Sư Đô, mà là vùng nào đó quanh đây. Nói không chừng là người trong Thánh môn của ngươi lại giở món cũ, muốn che tai mắt người khác, cho nên mới nhờ Lương Sư Đô làm hộ, có liên quan đến một âm mưu nào đó. Nghĩ nhiều vô ích, bọn chúng sắp xong rồi, chúng ta quay lại thôi!
o0o
Khấu Trọng không thể không xuất đao, nhưng quyền chủ động lại toàn bộ nằm trong tay đối phương.
Vị chủ trì Tịnh Niệm thiền viện này từng vì bọn Khấu Trọng trộm Hòa Thị Bích mới khai kim khẩu, lại vì Khấu Trọng mà phá giới xuất thủ, đã tu luyện Phật môn đại pháp đến mức hồi phục thanh xuân, khẳng định là thách thức và khảo nghiệm lớn nhất của gã sau Ninh Đạo Kỳ và Thạch Chi Hiên.
Liễu Không định ra số lượng mười chiêu, nếu ngay lúc đầu Khấu Trọng rơi vào thế hạ phong, tất sẽ không tránh khỏi sai một nước mà hỏng cả bàn cờ, không cách nào trong chín chiêu xoay chuyển thế yếu, quân bình kết quả. Cho nên một đao này liên quan đến vận mệnh sau này của Khấu Trọng, thậm chí là vận mệnh của thiên hạ.
Lòng biết nên dừng nhưng lại muốn làm tới, Khấu Trọng đem tinh, khí, thần toàn thân tập trung vào Tỉnh Trung Nguyệt một cách tự nhiên, chuyện huyền diệu nhất lập tức sinh ra, gã lập tức dung hợp thiên - địa - nhân, đạt đến cảnh giới hợp nhất tinh – thần – ý; chuyển thần khí vào trong tay. Một đao này không còn là một đao bị bức bách xuất ra nữa, mà là một đao chứa cả thiên, địa, nhân. Ngoài đao đó ra, chẳng còn gì nữa.
Nếu nói ở phía ngoài thành Lạc Dương khi đối mặt với thiên quân vạn mã đại tướng như mây của Lý Thế Dân, cái chết của Đậu Kiến Đức là lúc bắt đầu gã ngộ ra đao pháp, thì lúc này là hưởng thụ thành quả đột phá.
Liễu Không bị gã bức bách phải ngạnh tiếp một chiêu, lập tức không phải còn không cách gì đoán ra, không cách gì nắm bắt như trước. Liễu Không niệm một tiếng Phật hiệu, ngâm nga:
- Mọi pháp như mộng, vốn chẳng có gì, mộng cảnh vốn tĩnh, bắt đầu từ không; mộng tưởng nằm mộng, lợi gì hại gì; vì mê thành có, quên tình là tỉnh.
Liễu Không niệm lên, bỗng trước mắt Khấu Trọng hiện ra trăm ngàn bóng chuông nặng nề, chiêu Thái Sơn Áp Đỉnh ầm ầm đánh đến.
Đổi lại trước khi Khấu Trọng ngộ được đao đạo, hiện tại tất vô cùng bối rối, nhưng lúc này gã lại có thể nắm rõ chuông đồng đang xoay tròn quanh mũi đao. Còn Liễu Không thì lùi lại phía sau, tay rời chuông đồng, khéo léo dùng mấy chục năm công lực tinh thuần của Thiền môn, từ xa khống chế chuông mà công kích.
Hai mắt Khấu Trọng bị làm cho mê hoặc, Tỉnh Trung Nguyệt trên tay lại hiểu rõ hết hư thực.
Gã cũng cảm thấy chuông đồng quay nhanh như bánh xe gió, đang khắc chế và chống đối lại với Loa Hoàn kình khí một cách thần diệu.
Khấu Trọng cười dài:
- Mười chiêu ít quá rồi!
Đột nhiên gã đảo người qua, tránh chuông đồng, lại dùng bộ pháp “súc địa thành thốn” (rút đất), một bước đến bên phải Liễu Không, khua đao chém ngang, giống vụng mà khéo, lại vừa đỡ mà vừa tấn công, không theo một quỹ đạo nào có thể nắm bắt, kiểu cách thâm sâu như thiên địa tự nhiên, lại chẳng rõ đường hướng. Người và đao hòa với thiên địa nhân, không thể phân tách.
“Boong!”
Chuông đồng bỗng lại phát ra âm hưởng như mộ cổ thần chung (1), bất kể Khấu Trọng đạt tới cảnh giới nào, vẫn không ngờ được Liễu Không có một chiêu này, tựa như tiếng kêu trong veo đến từ Cửu thiên Huyền giới mờ mịt, tuyệt không phải là thứ Tỉnh Trung Nguyệt có thể thăm dò; đã không nắm được vị trí của ông ta, tự nhiên sinh ra cảm giác bị uy hiếp cực lớn.
Khấu Trọng lập tức biểu lộ đao ý thất thủ, một đao vốn nắm chắc trong tay từ trên trời trở lại phàm trần. Mắt nhìn thấy Liễu Không biến thành vài lớp nhân ảnh không rõ hư thực, vô số chưởng ảnh, phía sau cũng cảm thấy chuông đồng vòng vèo tập kích, đành thu đao rút lui. Bằng vào độc môn công phu chuyển hoán chân khí, gã lùi sang một bên, Tỉnh Trung Nguyệt lại hóa thành đao ảnh trùng trùng, đao khí lớp lớp, vô hình mà có thật, đề phòng Liễu Không thừa thế tấn công.
Chuông đồng bình yên quay về tay Liễu Không.
Khấu Trọng lùi cách xa Liễu Không khoảng mười bước, Tỉnh Trung Nguyệt trỏ về phía Liễu Không, đao khí lại không cách gì khóa chặt được vị cao nhân Thiền môn này, giống như bất lực khi đối mặt với núi cao vực sâu.
Bảo tướng Liễu Không trang nghiêm, nhìn vào chuông Phật đang cầm trong tay.
Khấu Trọng thở ra một hơi dài, đoạn nói:
- Chân ngôn chuông đồng của đại sư thực sự còn lợi hại hơn Tử Lăng, vừa rồi tính là bao nhiêu chiêu nhỉ?
Liễu Không lộ vẻ cười cười, nhưng vẫn không nhìn Khấu Trọng, bình thản nói:
- Không rõ nữa, cứ tính là một chiêu.
Lại cười nói:
- Thiếu Soái nếu cho đó là phi tướng, phàm tất cả tướng đều là hư vọng, nếu thấy các tướng như phi tướng, tức là thấy Như Lai(2). Đao pháp Thiếu Soái đã đạt đến cảnh giới tối cao của việc đoán ý, lão nạp tự hỏi thấy không cách gì có thể buộc Thiếu Soái buông tay nhận thua, mười chiêu thì sao? Trăm chiêu thì sao? Không mà có, có lại như không. Rốt cuộc Tống Khuyết đã tìm được người kế thừa đao pháp Thiên Đao. Mê muội bao năm, ngộ ra chỉ thoáng chốc. Lão nạp sẽ lập tức quay lại Thiền sơn, không can thiệp vào chuyện giữa Thiếu Soái và Tần vương nữa.
Nói rồi đại sư chuyển người hiên ngang bỏ đi, nói với lại:
- Xin thay Liễu Không hỏi thăm Tử Lăng.
Câu này dùng phương pháp ngâm xướng nói ra, tựa như niệm kinh tựa như không phải, tựa như hát, có một kiểu khó mà diễn tả, lại êm tai khác thường, khiến người ta nghe được khó lòng quên nổi.
Khi dư âm còn vang vọng bên tai, Liễu Không đã chìm vào rừng hoang tối tăm.
Khấu Trọng dõi theo chỗ ông ta biến mất, dường như khẳng định chuyện tối nay cả đời khó quên, không chỉ vì đột phá và thành tựu của đao pháp, mà còn vì nhất cử nhất động, từng câu từng chữ của Liễu Không đều tràn đầy thiền cơ.
Câu cuối cùng lại càng nhiều thâm ý, cũng khiến cho gã nhớ và lo lắng cho Tử Lăng vô cùng. Theo đạo lý gã phải sớm hồi phục mới phải, vì sao còn chưa đi tìm mình?
***
Hầu Hy Bạch vừa điều khiển buồm, ngược dòng đi về phía tây, vừa nói với Từ Tử Lăng:
- Tử Lăng nghĩ gì vậy? Vừa rồi trên mặt huynh thoáng hiện ra vẻ cười cười, có một ý vị siêu phàm huyền diệu khó đoán, khiến ta không kiềm chế được sinh ra hiếu kỳ.
Từ Tử Lăng đang chìm trong suy tư tỉnh lại, mỉm cười:
- Hy Bạch chắc chắn là người tò mò.
Hầu Hy Bạch thản nhiên nói:
- Không nhiều người có thể khiến ta nảy sinh hiếu kỳ, nhưng một khi như thế, ta rất muốn biết ý nghĩ trong nội tâm đối phương. Ta không có sự hiếu kỳ như vậy với Khấu Trọng, bởi vì gã so với huynh dễ hiểu hơn. Nhưng giống như Tử Lăng, Phi Huyên hoặc Thanh Tuyền đều thực sự khiến ta bị mê hoặc, cũng sinh ra sự hứng thú. Nguyên nhân ở chỗ ta không bao giờ hiểu ý nghĩ của Thạch sư phụ, nhưng vì kính trọng ông ấy nên không dám hỏi, ấm ức bị tích lại mà thành khuynh hướng thích nghe tâm sự của người khác như thế. Tử Lăng có thể thỏa mãn sự tò mò của ta không? Ha ha! Yêu cầu này không phải quá đáng đó chứ?
Từ Tử Lăng bật cười ha ha đáp:
- Đã là tri kỷ, đâu có chuyện gì không thể nói. Ta mới rồi nghĩ về Cửu Tự Chân Ngôn thủ ấn của Chân Ngôn đại sư. Ngày ấy bỗng học kiểu ăn tươi nuốt sống, còn cho rằng mình đã hiểu hết tinh túy trong đó, đến hôm nay mới phát giác ra kỳ thực chỉ được hình mà chưa được thần. Việc tỉnh ngộ này khiến ta giống như nắm được cả thiên địa.
Hầu Hy Bạch vui mừng nói:
- Nói như thế, thụ thương lần này lại là một cơ duyên, khiến Tử Lăng tiến đến cảnh giới mới của Thiền môn. Nếu huynh có thể đạt tới thiền cảnh của Chân Ngôn đại sư, ta có thể khẳng định huynh là người đầu tiên trong lịch sử võ lâm có thể dung hợp cảnh giới tinh vi nhất của hai nhà Phật, Đạo. Ài! Suy nghĩ đó khiến ta không nhịn được hỏi huynh một vấn đề. Tử Lăng rốt cuộc có bao nhiêu phần nắm được có thể phục hồi, chắc không ai có thể rõ tình trạng của chính mình hơn huynh.
Từ Tử Lăng thản nhiên hỏi:
- Không phải huynh nói Thạch Thanh Tuyền có thể chữa cho ta sao?
Hầu Hy Bạch cười nhăn nhó:
- Đó là biện pháp duy nhất khi không có biện pháp. Thạch sư phụ từng nhiều lần tán dương y đạo của sư nương trước mặt ta. Ngày ấy ở U Lâm tiểu cốc thấy Thanh Tuyền hái thuốc quay lại, cho nên suy đoán nàng đã học được chân truyền của sư nương. Nhưng khi ta nghĩ tới chuyện Nhạc Sơn bại dưới đao của Tống Khuyết, đi tìm sư nương cầu trợ không được mà chết, tất cả tin tưởng đều dao động, chỉ là không dám nói ra.
Từ Tử Lăng lắc đầu cười gượng cùng gã, đoạn nói:
- Thì ra lời huynh nói đều là vì an ủi ta.
Hầu Hy Bạch than thở:
- Chỉ cần có một tia cơ hội, chúng ta cũng không nên bỏ qua, phải không? Quan trọng hơn là ta hy vọng hai người có thể ở cùng một chỗ.
Từ Tử Lăng đón gió sông lạnh lẽo thổi tới, hít sâu một hơi, chậm rãi nói:
- Một ngày Khấu Trọng vẫn ở chiến trường ra sinh vào tử, phấn đấu vì mục tiêu cao xa, ta sao có thể chỉ lo cho thân mình. Ta từng nghĩ mình có thể làm được, nhưng cuối cùng sự thật chứng minh là không. Do đó ta chỉ có thể nén lại tình cảm trong lòng với Thanh Tuyền, vì ta không hiểu lần tới có thể sống để quay lại gặp nàng hay không.
Hầu Hy Bạch không ngờ Từ Tử Lăng lại thật thà như thế, ngạc nhiên hồi lâu, nhẹ nhàng nói:
- Ta cảm nhận được sự thống khổ trong lòng Tử Lăng.
Từ Tử Lăng ngẩng đầu nhìn bầu trời sao sâu rộng, trong ngực tràn ngập tình tự cay đắng khiến người ta phải than vãn, nhưng ngữ điệu của gã lại bình tĩnh, mù mờ nói:
- Nhưng ta khát vọng gặp lại nàng, nghe tiếng tiêu tuyệt thế vô song động lòng người của nàng, để nàng lấy cách của mình trêu đùa ta, khiến ta lúng túng. Cho nên khi huynh đề nghị tìm nàng chữa thương cho ta, ta chưa từng phản đối.
Hầu Hy Bạch lại trầm mặc.
Từ Tử Lăng nói tránh đi:
- Khi huynh và Dương Hư Ngạn chuẩn bị giao đấu, ta từ trong phòng đi ra nội viện, vào lúc đó, ta hoàn toàn quên đi thương thế của mình. Lại có một cảm giác kỳ diệu, cảm thấy nếu ta có thể trong lúc thần trí thanh tỉnh có thể quên được nội thương, từ có chuyển thành không, ta tự nhiên có thể thuyên giảm
Hầu Hi Bạch ngạc nhiên nói:
-Có đạo lý, đây chính là ý nghĩa chân chính của câu vạn niệm hóa thành một ý, một ý niệm không trỗi dậy thì vạn niệm chỉ là không của Đạo gia. Tử Lăng luyện là Trường Sinh Quyết huyền bí nhất của Đạo gia, có cảm giác kỳ dị như vậy cũng là hợp lý.
Từ Tử Lăng than:
-Thế nhưng ta tuy tự biết chuyện của mình, song thực tế là không cách gì làm được. Bởi vì mỗi lần ta muốn tĩnh tọa vận khí luyện công thì cũng đồng thời tự nhắc mình về thương thế. Đó là tập quán thâm căn cố đế từ khi luyện Trường Sinh Quyết, không cách gì thay đổi được. Thế nên tiến triển không lớn, đến chỗ quan trọng thì bị dừng lại, không tiến được nữa, tối đa cũng chỉ là huyệt Dũng Tuyền ở hai chân bên nóng bên lạnh mà thôi.
Hầu Hi Bạch khổ não nói:
-Vậy phải làm sao mới tốt?
Ánh mắt Từ Tử Lăng nhình về phía núi rừng trùng điệp ở bờ nam, trong mắt chợt hiện vẻ ôn nhu, gã nhẹ nhàng nói:
-Chẳng cần biết Thanh Tuyền có phải được mẫu thân chân truyền hay không, tiêu âm của nàng khẳng đinh là thuốc tiên khiến ta quên hết mọi thứ, bao gồm cả thương thế của ta và mối lo cho bọn Khấu Trọng. Thế nên đề nghị của Hi Bạch là tuyển chọn tốt nhất.
o0o
Khấu Trọng đứng trên đỉnh một ngọn núi nhỏ, đưa mắt nhìn ra xa. Vô Danh đậu trên đầu vai. Dưới ánh mặt trời buổi sớm, áo gã bay phất phơ trong gió, dáng người hùng vĩ, thần thái tự tin, lưng đeo bảo đao Tĩnh Trung Nguyệt danh chấn thiên hạ, trông như một thiên thần.
Hai con sông Dật Thủy và Nhữ Thủy ở hai bên ngoằn ngoèo chảy về phía xa, tưới nhuần cho những khoản đất đai màu mỡ ở hai bên bờ, đem lại sinh cơ vô hạn cho vùng đồng bằng phụ cận, hình thành một khu rừng cây rộng lớn xanh rờn.
Khu đất bằng xa xa ở phía tây nam có một dãy núi nhấp nhô liên miên, có thể tưởng tượng nếu tới gần, sẽ càng cảm thấy khí thế hùng vĩ đồ sộ của nó.
Nhưng gã lại cảm thấy chán nản và đau lòng khi nghĩ tới Dương Công Khanh cùng trăm ngàn tướng sỹ đi theo vĩnh viễn không thể thấy mỹ cảnh trước mắt, ngựa yêu Thiên Lý Mộng không có duyên một lần nếm thử cỏ trên núi, mà bọn họ đều dũng cảm hy sinh vì mình. Nỗi hận của gã và Lý gia Đường thất dù lấy nước năm hồ bốn biển tẩy rửa cũng không sạch.
Đột nhiên trong lòng gã hiện lên ngọc dung như hoa của Thượng Tú Phương, nàng liệu có đến được Cao Ly, tìm được khúc nhạc lý tưởng trong lòng nàng hay không. Gã lại nghĩ đến Liệt Hà dùng mọi thủ đoạn để có được hảo cảm và cố gắng đoạt con tìm của nàng, những vết thương rải rác trong tim lại rỉ máu. Gã lại nghĩ đến Tống Ngọc Trí, thiếu nữ có phẩm giá cao quý, bị gã gây tổn thương biết bao lần, càng khiến gã dấy lên trăm mối tơ vò trong lòng.
Đã lâu gã không nghĩ tới các nàng ấy, từ khi đến Lạc Dương, tâm thần của gã tràn đầy chiến ý, toàn thần toàn ý tranh thủ thắng lợi, hết lòng vì sự tồn vong của Thiếu Soái quân, đấu tranh sinh tồn, không để tâm đến bất kỳ thứ gì khác. Nhưng vào lúc chờ đợi này, gã lại chìm vào sự hối hận đau khổ và những hồi ức sâu sắc, khó mà xua đi nổi.
Một đoạn tình cảm với Sở Sở cũng khiến gã tâm thần khó yên, với nàng gã chỉ thương nhiều mà yêu ít, thiếu niên nhất thời mặc sức giăng tơ, gây ra một gánh nặng cảm tình mà suốt đời không thể tiếp nhận, có thể than thở, nhớ nhung, hồi tưởng nhưng không giải quyết được gì.
Bất kể trong lòng gã có thống khổ thế nào, cũng chỉ có thể chôn giấu thật sâu niềm đau thương, vì trước mắt chuyện quan trọng nhất của gã là ứng phó với cuộc đấu tranh tàn khốc quan hệ đến sự tồn vong của toàn thể Thiếu Soái quân. Ai đủ nhẫn tâm thì sẽ có thể sống sót. Gã tất phải bỏ qua tất cả; dùng trạng thái đỉnh cao nhất trong tình thế ác liệt nhất, dốc hết khả năng mới có thể tạo ra kỳ tích.
Trong cuộc đấu tranh với Lý Thế Dân, gã không ngừng phạm sai lầm, vì thế đã nếm trái đắng thê thảm. Gã không được phép đi sai một nước cờ khác, vì gã đã không còn vốn liếng gì nữa rồi.
Mặt trời hiện ra non nửa từ sau dãy núi phía đông, chiếu sáng khắp nơi.
Lý Thế Dân đoán gã sẽ đến Chung Ly cầu viện, Khuất Đột Thông tất có dự phòng. Có thể thấy bị đánh úp không nằm ngoài dự đoán, hỏa khí của gã có thể rốt cuộc đã thất bại, đối với chuyện này gã đã không còn niềm tin và sự chắc chắn như trước khi rời hiệp đạo nữa. Nếu Bạt Phong Hàn không thể đến kíp thời, gã đành phải đánh giết quay lại hiệp đạo, đồng sinh cộng tử với chiến sỹ.
Đang nghĩ đến đây thì ở chỗ núi rừng phía nam bụi bay mù mịt, Khấu Trọng vui mừng quá đỗi, thầm kêu cảm ơn trời đã giúp ta, dốc hết tốc lực chạy xuống sườn núi nghênh đón.
-----
(1) Mộ cổ thần chung:
Mộ: buổi chiều; cổ: cái trống; thần: buổi mai; chung: cái chuông.
Nghĩa: tiếng trống ban chiều, tiếng chuông sáng sớm.
Nghĩa bóng: lấy lời nói kín đáo, nhẹ nhàng để cảnh tỉnh người khác.
Thơ Đỗ Phủ có câu:
Dục giác vấn thần chung,
Linh nhân phát thâm tỉnh.
Nghĩa:
Muốn được giác ngộ, thì hỏi tiếng chuông buổi sớm mai, để lòng người tỉnh ngộ sâu xa.
Nguồn:
(2) Nguyên văn" phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến như lai. " Đây là câu nói của Phật với Tu Bồ Đề trong kinh Kim Cang.