Từ Thế Xương cứ cảm thấy hắn còn ý khác, nhưng cũng mặc kệ, Tạ Trí Quân không nói rõ y cũng lười tìm hiểu.
Từ Thế Xương chuyển đề tài: “Trường Hoài ca ca vẫn còn ở cửa Tuyết Hải chưa thể quay về, ta thay huynh ấy chúc mừng huynh. Mấy hôm trước đệ đệ vừa tìm được một tấm bình phong phỉ thúy, mùa hạ mà để trong phòng là mát mẻ vô cùng, là thứ quý hiếm, Trường Hoài nói huynh sợ nóng nên ta mới tặng cho huynh, ngày mai người của phủ Thái sư sẽ đưa lễ vật tới.”
Tạ Tri Chương ném kiếm sang bên cạnh, quan sát Từ Thế Xương: “Y bảo ngươi chúc mừng ta?”
Từ Thế Xương cười hì hì: “Dĩ nhiên, dĩ nhiên.”
“Bớt ngon ngọt đi, Bùi Dục là loại người gì ta còn không rõ hay sao?” Tạ Tri Quân nói: “Nếu y thật sự có lòng, cho dù là thiên sơn vạn thủy cũng có thể trở về kịp.”
Từ Thế Xương nghe hắn bất mãn với Bùi Trường Hoài trong lòng ít nhiều cũng khó chịu, y nói: “Văn Thương, huynh cứ phải ép người quá đáng như thế mãi sao? Trường Hoài nhớ rõ huynh sợ nóng là sự thật, nếu không ta cũng không đặc biệt đi tìm tấm bình phong đó cho huynh làm gì. Chúng ta dù sao cũng từng là bạn học, sao huynh nói chuyện lại khó nghe thế? Nếu Trường Hoài thật sự tệ bạc như lời huynh nói thì huynh ấy đối tốt với ta làm gì? Từ Cẩm Lân ta làm sao có thể làm bạn với huynh ấy?”
Tạ Tri Quân mỉm cười mỉa mai. Bùi Dục quả thật moi tim móc phổi của mình ra đối xử với tên này, từ trước đến giờ đều như thế, đều làm người ta đố kỵ, ghen ghét.
Tạ Tri Quân đáp: “Ta cũng không thể hiểu nổi, phủ Thái sư và Hầu phủ như nước với lửa, tại sao Bùi Dục vẫn coi ngươi là bảo bối?”
“Bớt nói nhảm, cái gì mà như nước với lửa? Cha ta và Trường Hoài tuy rằng chính kiến bất đồng, nhưng hai người đều vì muốn tốt cho con dân Đại Lương, Trường Hoài là người công tư phân minh nên mới không để ý mà làm bạn với ta.”
Nụ cười của Tạ Tri Quân càng diễm lệ: “Từ Cẩm Lân, ngươi không thấy mình ngây thơ quá hay sao, thật sự cho rằng Thái sư và Bùi Dục chỉ là chính kiến bất đồng?”
Từ Thế Xương mím môi, lại im lặng một hồi lâu, thật sự có chuyện y còn chưa hiểu hay sao? Không chỉ là chính kiến, mà cả lợi ích thế lực quan hệ, cả hai bên đều không ngừng đối đầu, nhưng trước giờ Từ Thế Xương không thích xen vào chính sự nên chẳng biết gì hết.
Lòng y bắt đầu rối bời, cũng không muốn nói chuyện với tên tổ tông này nữa, đập mạnh cây quạt, mất kiên nhẫn nói: “Thôi dẹp đi, coi như ta lo chuyện bao đồng. Đợi đến lúc Trường Hoài trở về, chúng ta cùng đi uống rượu, có chuyện gì khuất mắt thì cứ nói ra, sao phải ôm hận trong lòng như thế.”
Lúc Từ Thế Xương vừa định trở lại yến tiệc uống rượu, đột nhiên nhìn thấy một đội binh sĩ từ hậu viện Tiêu Vương phủ bước ra, kẻ nào cũng mặc áo giáp sắt, hùng hổ hướng về phía tiền viện.
Xem tình hình này, có vẻ đã xảy ra chuyện lớn.
Từ Thế Xương kinh hãi, vội nói: “Chuyện gì thế? Phía trước có kẻ làm loạn sao?”
Tạ Tri Quân chỉ mỉm cười, sắc mặt bình thản.
Từ Thế Xương liền biết chuyện không ổn, vội vàng nhìn quanh rồi cất bước chạy đến tiền viện.
Từ Thế Xương nghe tiếng cãi vã, mới biết hóa ra là Viên gia tam công tử định ra về giữa chừng, lúc chuẩn bị ra khỏi cửa thì bị một thị vệ ngăn lại, khuyên hắn đợi khi tàn tiệc hẵng ra về.
Tính tình Viên Tam không tốt, liền đẩy thị vệ ra, mắng lớn: “Ngươi là thứ gì mà dám ngăn ta?”
Ai ngờ thị vệ cũng không khách sáo, đứng dậy vặn tay Viên Tam áp giải hắn trở lại tiệc, Viên Tam đau đớn la oai oái, đám người thấy thị vệ Tiêu Vương phủ đối xử với khách khứa như thế, lập tức gây gỗ, tạo thành cục diện như bây giờ.
Từ Thế Xương ôm nghi hoặc trong lòng, nỗ lực chen vào sảnh chính, chẳng thấy Tiêu Vương gia đâu, chỉ có đại công tử Tạ Tri Chương tọa trấn.
Khách đến tham dự yến tiệc lần này chen chúc nhau trong sảnh, đội binh vừa nãy dàn trận xung quanh, đao kiếm rời vỏ, một con ruồi cũng không được phép rời khỏi chốn này.
Trong tình cảnh này, khách khứa có người dị nghị, có kẻ nghi hoặc, cũng có kẻ phẫn nộ hay sợ hãi, hỗn loạn muôn phần, chỉ có Tạ Tri Chương bình tĩnh ngồi ở trung gian, nhàn nhã nâng chén trà trong tay.
Có một kẻ lên tiếng: “Tạ Tri Chương, ngươi rốt cuộc muốn làm gì? Bọn ta đều là khách tới chứ không phải phạm nhân, tại sao không được rời phủ? Đám binh lính này lại là sao? Chẳng lẽ ngươi định nhốt bọn ta lại hay sao?”
Tạ Tri Chương cười nhạt: “Các vị đừng nóng nảy, cũng không cần lo lắng, ngoài kia có chút sóng gió, ta sợ các vị gặp nguy hiểm nên mới giữ các vị ở lại phủ, tạm thời không thể ra ngoài. Đợi sóng yên biển lặng, tự nhiên ta sẽ thả các vị an toàn trở về.”
“Sóng gió? Ngươi mau giải thích rõ ràng cho ta.”
Tạ Tri Chương chỉ qua loa đáp: “Phủ Doãn đại nhân vẫn còn đang điều tra.”
“Ngươi đừng kiếm cớ! Chỉ là một đứa thứ tử lại có gan ngồi chủ vị, còn dám ngông cuồng như thế, ngay cả Tiêu Vương gia cũng không dám sỉ nhục Viên gia như thế!”
Viên Tam bị vặn tay, làm sao nuốt được cục tức này, to tiếng la hét: “Ta phải ra ngoài, ta muốn ra ngoài, xem ngươi có thể làm gì được ta!”
Một binh sĩ đứng trước mặt hắn, mạnh tay đẩy hắn ngã rạp xuống đất.
Viên Tam lửa giận bừng bừng: “Tạ Tri Chương, tiện nhân, còn không mau bảo bọn chúng cút đi!”
Nghe hắn mắng chửi như thế, Tạ Tri Chương vẫn bình thản như không, hắn đặt chén trà trong tay xuống, mỉm cười nhìn Viên Tam, nhẹ nhàng nâng ngón tay.
Binh sĩ nhận lệnh, rút đao ra tới, chẳng đợi đám đông kịp phản ứng, ánh đao sáng lòa, chiếu vào mắt Từ Thế Xương làm y bất giác nhắm chặt mắt.
Ánh sáng rời khỏi kéo theo một làn máu tươi, ngay sau đó, cánh tay trái của Viên Tam rơi trên đất.
Viên Tam lúc đầu còn chưa kịp định hình, đến khi nhìn thấy cánh tay, chạm vào vết thương vẫn không ngừng phun máu, hắn mới điên cuồng la hét trong đau đớn.
Viên Tam lăn tròn trong vũng máu, đau đớn làm toàn thân hắn run rẩy, cổ họng gào thét như muốn nứt ra.
Tình cảnh thê thảm trước mắt làm đám đông kinh hãi.
Lúc nãy bọn họ vẫn còn nghĩ, cho dù có tranh chấp lớn tới đâu thì cùng lắm chỉ là xô xát một chút, ai ngờ đám người này lại dám động đao động kiếm.
Tạ Tri Chương vẫn ôn hòa mỉm cười, tựa như trăng thanh gió mát, nhẹ giọng nói: “Xem ra các vị không còn ai muốn ra ngoài nữa.”
Từ Thế Xương sợ hãi đến trắng mặt, lúc này Tạ Trí Quân cũng đã chậm rãi nhập tiệc.
Từ Thế Xương nhìn thấy hắn, vội nắm tay áo hắn, giọng nói vẫn còn run rẩy: “Các ngươi muốn làm gì thế? Có phải các người điên rồi không?”
Tạ Tri Quân bình tĩnh đáp: “Đợi một lát ngươi sẽ rõ.”
Nhìn thấy Từ Thế Xương vẫn còn không chịu buông Tạ Tri Quân, Tạ Tri Chương mới nhớ tới một chuyện vẫn còn chưa kịp xử lý, hắn phất tay gọi một binh sĩ đến.
“Người của Chính Tắc Hầu phủ còn chưa đến.” Tạ Tri Chương phân phó: “Ngươi đem một đội binh đến Hầu phủ, mời hai người tẩu tẩu và đứa cháu trai nhỏ tuổi của Bùi Dục sang đây đề phòng vạn nhất.”
Từ Thế Xương nghe thấy lời này, đoán rằng hắn muốn bắt Nguyên Thiệu làm con tin, nhất thời phát hỏa: “Các ngươi dám! Tạ Tri Chương, ngươi dám động vào người của Chính Tắc Hầu phủ? Ngươi có tin ta liều mạng với ngươi hay không? Ngươi dám chặt tay Viên Tam thì cứ tới đây động vào một ngón tay của ta thử xem cha ta có tha có ngươi không!”
Tạ Tri Chương mỉm cười: “Cẩm Lân, đệ nói gì thế? Ta có thể ngồi ở đây là phụng lệnh của Thái sư, ông ấy dặn dò ta phải trông nom đệ cho cẩn
thận, làm sao có thể động thủ với đệ?”
Từ Thế Xương nghi hoặc: “Cha ta? Ông ấy ra lệnh cho ngươi? Tại sao?” Đến khi dứt lời, Từ Thế Xương như đã hiểu ra: “Ông ấy đang ở đâu?”
Tạ Tri Chương thần bí nói: “Giờ này, ông ấy hẳn vẫn đang ôn lại chuyện cũ trong cung?”
Từ Thế Xương lắc đầu, trên trán toàn là mồ hôi lạnh: “Không thể nào…”
Vẫn như mọi ngày bình thường khác, sắc trời âm u, chẳng bao lâu sau mưa rơi ngợp hoàng thành.
Bởi vì trận mưa này, cung cấm trở nên im lặng, im lặng tới kỳ quái.
Từ Thủ Chước vào cung, tay cầm một chiếc ô bước trên con đường lót đá ngọc, ông ta đi rất chậm, tựa như dùng thời gian cả một đời để cất bước, từng bước từng bước nặng nề, mất thời gian để một ấm trà nguội lạnh mới đến được Minh Huy điện.
Từ Thủ Chước lấy lý do muốn báo cáo chính sự tham kiến Hoàng thượng.
Sùng Thiệu Đế đứng sau thư án, bởi vì bệnh còn chưa khỏi nên không vận hoàng bào, thường phục trên thân màu xanh khói, mang mấy phần thoát tục.
Người đang nâng bút vẽ tranh thủy mặc, trong tranh là một thần nữ đang lột bỏ kiếp người phi thăng thành tiên, tư thái sống động, tựa như muốn bay ra khỏi tranh, lại chẳng vẽ lên mi mục, mất đi cái thần thái của khuôn mặt.
Trịnh Quan đứng bên cạnh mài mực. Sùng Thiệu Đế không dừng tay, chỉ mời Từ Thủ Chước ngồi xuống nói chuyện.
Từ Thủ Chước nhàn nhã ngồi xuống ghế, bắt đầu nói: “Thái y viện đã có phương pháp trị liệu ôn dịch, trận dịch bệnh ở phương nam lần này xem như đã ổn định, theo lệ cũ, triều đình sẽ miễn cho bách tính ở những nơi chịu thiệt hại nửa năm tô thuế. Cũng may là cảng khẩu do Thương hội Dương Châu và cục Vận tải Dương Châu xây dựng đã hoàn thành, năm sau có thể thông thương, là cơ hội để bổ sung quốc khố hao hụt.”
“Tốt lắm! Nghe nói việc chuẩn bị xây dựng cảng khẩu lần này Triệu Quân cũng có góp sức, đợi nó trở về trẫm sẽ phong thưởng cho nó thật to!” Sùng Thiệu Đế đại hỉ, đặt bút xuống, nhìn Từ Thủ Chước nói: “Tất cả đều nhọc công Thái sư.”
Từ Thủ Chước mỉm cười, có chút quái dị, có chút sâu xa.
Trầm mặc một chút, Từ Thủ Chước nói: “Hoàng thượng, đây không phải công lao của thần. Người có biết, biện pháp trị thủy trừ dịch lần này là do ai tạo ra, việc trù bị cảng khẩu Dương Châu khai thông thương đạo là do ai sắp đặt?”
Sùng Thiệu Đến cười hỏi: “Sao thế, dưới tay Thái sư lại có thêm người tài nào mà trẫm chưa biết sao?”
Từ Thủ Chước lắc đầu: “Có lẽ Hoàng thượng đã quên mất cái tên của người đó, hoặc là không muốn nhớ tới cái tên ấy nữa.”
Sùng Thiệu Đế chau mày, thần sắc nghiêm nghị trở lại.
Trịnh Quan ở bên cạnh phát giác mầm họa, bèn cất lời nói khéo: “Lời này của Thái sư, người tài của Đại Lương bao la, tất cả đều vì Hoàng thượng mà liều mạng, Hoàng thượng không nhớ rõ một trong số họ chẳng phải là chuyện bình thường hay sao?”
Sùng Thiệu Đế xoay bút, ra hiệu cho Trịnh Quan đừng nhiều lời, trầm giọng hỏi: “Thái sư, rốt cuộc khanh muốn nói gì?”
Từ Thủ Chước ung dung mỉm cười: “Lão thần chỉ là nhớ nhung người xưa, muốn ôn lại chuyện cũ cùng Hoàng thượng.”
Ông ta không nhìn Sùng Thiệu Đế mà ngẩng mắt trông về phía xa xăm: “Nếu Quan Triều có thể sống được tới ngày hôm nay, có lẽ đệ ấy sẽ mang tước vị cao lắm.”
Ông ta cúi đầu, nắm chặt tay vịn, nặng nề nói tiếp: “Vị trí của lão thần lẽ ra là của đệ ấy.”
Quan Triều, Tống Quan Triều, từng là công thần dưới trướng tiên đế, vì trúng phải độc tiễn mà bỏ mạng, truy phong “Văn Chính Công”.
Là trượng phu của Mạnh Nguyên Nương, là phụ thân của Tạ Tùng Tuyển.
Phụ thân trên danh nghĩa.
Chuyện này năm đó có rất nhiều người biết, nhưng lại chẳng ai biết, Tống Quan Triều sinh tiền cùng Từ Thủ Chước là huynh đệ kết nghĩa.
Hai người đều xuất thân bần hàn, lúc đó ở Dương Châu, Tống Quan Triều mồ côi lưu lạc, Từ Thủ Chước phụ mẫu mất sớm, lại phải nuôi nấng một tiểu muội vì ốm đói mà vàng vọt.
Ba người dựa vào màn thầu do người cúng viếng miếu Thành Hoàng tiếp tế mà miễn cưỡng sống qua ngày, nương tựa lẫn nhau mà lớn lên.
Từ Thủ Chước lớn hơn Tống Quan Triều nhiều tuổi, nhưng từ nhỏ Tống Quan Triều thiên tư thông minh, lanh lẹ mẫn tiếp. Trong khi những kẻ bần cùng khác vật vã vì miếng cơm thì Tống Quan Triều lại thích đọc sách phối thuốc, lại gặp được cơ duyên, bái một vị cử nhân ở Dương Châu làm thầy, từ nhỏ đã có tài thi từ ca phú.
Sau đó, Tống Quan Triều viết một bài thơ trào phúng thời cục bị quan phủ bắt vào ngục. Từ Thủ Chước thân là nghĩa huynh, nhìn thấy Tống Quan Triều gặp nạn, liền gấp gáp cầu trợ bốn phương.
Nhưng lúc đó ông ta chỉ là dân thường, người có quyền thế nhất mà ông ta từng gặp qua chỉ có thổ hào địa phương, bọn họ đều không dám vì cứu Tống Quan Triều mà chọc giận quan phủ.
Có lẽ trời sinh cho Từ Thủ Chước một đôi mắt biết nhìn người, ông ta biết sau này Tống Quan Triều nhất định sẽ đỉnh thiên lập địa, cũng nhìn ra được người có thể cứu y chính là Hiền Vương, cũng chính là Tiên đế, đang được phong đất Dương Châu.
Từ Thủ Chước mang theo nguy cơ bị Hiền Vương chém đầu, chắn ngang kiệu của Hiền Vương. Cái ch/ết đã đến trước mắt, Hiền Vương ngăn cản thị vệ, kiên nhẫn hỏi ông ta có gì oan khuất.
Từ Thủ Chước dâng thi tập của Tống Quan Triều cho Hiền Vương, Hiền Vương ngồi trong kiệu đọc một tác phẩm của Tống Quan Triều thì bật cười: “Quả là khẩu khí cuồng vọng, nhưng cũng không thể phủ nhận đây là một bài thơ hay.”
Sau đó, Hiền Vương xuống kiệu, thường phục cũng không che được khí chất cao quý của ông, thần dân trên phố cúi người hành lễ.
Hiền Vương nhìn Từ Thủ Chước đang quỳ trên đất, cất giọng hỏi: “Ngươi tên gì? Bài thơ này là ngươi viết sao?”
“Bẩm Vương gia, thảo dân Từ Thủ Chước.” Ông ta đã đáp như thế: “Bài thơ này là do nghĩa đệ của thảo dân Tống Quan Triều viết, bởi vì viết bài thơ này nên đệ ấy bị quan phủ bắt đi rồi.”
Hiền Vương không biết nói gì, một lát sau mới quay đầu nhìn tri phủ Dương Châu đi theo kiệu, nhẹ nhàng nói: “Đứa nhóc mới lớn mà lại có thể nhìn xa trông rộng thấu hiểu lẽ đời như thế, Bản vương thấy là điều tốt mà.”
Tri phủ Dương Châu nghe ra ý muốn vấn tội, trán rớm mồ hôi, liên tục gật đầu: “Vâng, vâng, hạ quan liền thả người, thả người.”
Hiền Vương nói: “Người viết thơ hay Bản vương gặp qua không ít, nhưng người có thể viết ra được ý tứ thế này thì chẳng có bao nhiêu. Bản vương phải gặp thử Tống Quan Triều này mới được.”
Cử động này của Từ Thủ Chước, không chỉ tìm đường sống cho Tống Quan Triều, mà còn dọn sẵn đường làm quan sau này cho hai người.
“Lúc đó ai ai cũng biết hai người Tống, Bùi là hai cánh tay đắc lực của Tiên đế, không bao giờ nhắc đến tên của thần, thật ra nếu so với Quan Triều, lão thần cũng chỉ là một kẻ tầm thường. Quan Triều là người tài giỏi, cách trị ôn dịch sau lũ lụt ở phương Nam đệ ấy nghĩ ra đến nay vẫn còn dùng được, so với đệ ấy, lão thần hổ thẹn mình không bằng.”
Người có thể làm Từ Thủ Chước thua khâm phục khẩu phục, vui vẻ thoải mái hạ mình như thế, cũng chỉ có Tống Quan Triều mà thôi.
“Nhưng Quan Triều mang chí tứ phương, Tiên đế sợ rằng thiên địa nơi Hiền Vương phủ không thể giữ con hồng hạc là đệ ấy, mới nghĩ ra cách gả trưởng nữ Mạnh gia Mạnh Nguyên Nương cho đệ ấy.”
Tay Sùng Thiệu Đế khựng lại, mực chu sa trên đầu bút rơi xuống, thấm đỏ khuôn mặt thần nữ trong tranh.
Đáng tiếc cho bức tranh này, chỉ vì một sai lầm nhỏ mà hủy hoại tất cả.