Người suy nghĩ rất lâu mới quyết định, trận này nhất định phải đánh, hơn nữa, nhất định phải thắng.
Bảo Nhan Chử Tô Lặc hung ác hiếu chiến, dã tâm bừng bừng, nếu mặc kệ để hắn lên ngôi Bắc Khương quân chủ, ngày sau ắt sẽ thành họa lớn.
Sùng Thiệu Đế phái Trịnh Quan xuất cung đến phủ Tướng quân hỏi thăm thương thế của Triệu Quân. Trịnh Quan trở lại bẩm báo, nói rằng thương thế Triệu Quân không nhẹ, ngay cả bưng một chén trà cũng phí sức.
Sùng Thiệu Đế không khỏi nuối tiếc, hạ lệnh phong thưởng, lại sai Trịnh Quan đưa đến phủ Tướng quân, để cho các quan thần khác hiểu được, người này được đế vương trọng dụng, chuyện cáo trạng sao này đừng làm nữa.
Trước mắt Triệu Quân không thể chinh chiến, quần thần lại nhất tề tiến cử Bùi Trường Hoài, cho dù Thiệu Sùng Đế có không đồng ý thì chuyện cũng đã như đinh đóng cột.
Người nói: “Lần này tướng sĩ Bắc doanh đồng ý cho con cơ hội, trẫm cũng đành nghe theo. Chính Tắc Hầu, trẫm lệnh con dẫn ba ngàn binh tinh nhuệ, lập tức xuất chinh giải cứu đại quân Bảo Nhan Đồ Hải, bình định Bắc Khương nội loạn.”
Bùi Trường Hoài quỳ trên đất, nâng hai tay cung kính nhận lấy thiết lệnh hổ phù, hiên ngang đáp: “Thần nhất định không phụ sứ mệnh!”
Sùng Thiệu Đế trầm ngâm một chút mới nói: “Lần trước ở rừng Bảo Lộc, Triệu Quân có tiến cử một người, trẫm thấy người này là nhân tài có thể trọng dụng, lần này cho y theo con xuất chinh, đến sa trường rèn luyện.”
Bùi Trường Hoài chau mày, không kịp phản ứng, Sùng Thiệu Đế cất giọng: “Vệ Phong Lâm.”
Ngay lập tức, Vệ Phong Lâm bước vào điện, quỳ xuống bên cạnh Bùi Trường Hoài: “Có thảo dân.”
“Trẫm phong ngươi làm Hộ Viễn Giáo úy, theo Chính Tắc Hầu xuất chinh, nghe lệnh của y, ngươi tình nguyện không?”
Sắc mặt Vệ Phong Lâm vẫn lạnh lùng như cũ, cúi đầu lạy tạ: “Thần tuân chỉ.”
“Tốt.” Sùng Thiệu Đế phất tay: “Đều bình thân đi.”
Hai người lĩnh chỉ tạ ơn, lục tục rời khỏi Minh Huy điện, Bùi Trường Hoài vừa cất bước đã bị Sùng Thiệu Đế giữ lại: “Con ở lại một chút.”
Người đứng dậy, rời khỏi long ỷ, bước đến bên cạnh Bùi Trường Hoài, quan sát y một lúc, rồi giờ tay nắm lấy vai y.
“Hoàng thượng?”
Bờ vai Bùi Trường Hoài đã không còn mỏng manh như ngày trước, thậm chí còn cao hơn cả Sùng Thiệu Đế một chút, ngày thường không nhận ra, hôm nay cẩn thận nhìn lại, mới biết Bùi Trường Hoài đã lớn thật rồi.
Lúc đi Bắc Khương sáu năm trước vẫn còn là một tên nhóc, nghe tin Bùi Thừa Cảnh trúng tiễn trọng thương liền kéo một con ngựa xông ra khỏi kinh thành, vốn là một đứa trẻ ngoan ngoãn quy củ, tính tình cũng trầm ổn cẩn thận, chỉ có lần đó dường như biến thành ngựa hoang mất cương, ngay cả thánh chỉ cũng không xin đã lên ngựa đi Tẩu Mã Xuyên.
Đợi đứa trẻ ấy trở về, kinh thành đã phủ một làn tuyết mỏng.
Vũ Lăng quân mang theo hai cỗ quan tài gỗ đen như mực, chúng tướng sĩ đầu đội khăn tang, Bùi Trường Hoài mặc áo gai trắng, ôm bài vị của Bùi Thừa Cảnh trước ngực, như kẻ mất hồn, từng bước từng bước đi trên phố, tới cửa hoàng cung.
Sùng Thiệu Đế ngồi trên cổng son sừng sững.
Thiên tử tự mình đến nghênh đón thần tử của người, tướng sĩ của người, quần thần và bách tính quỳ rạp trên đất.
Bùi Trường Hoài ngây người hồi lâu mới theo đám người quỳ xuống, Sùng Thiệu Đế chậm rãi bước tới, xoa đầu y, nghẹn ngào: “Trường Hoài à.”
Bùi Trường Hoàng cúi đầu, đôi tay ôm chặt bài vị của Bùi Thừa Cảnh, bờ vai run rẩy, đó là lần cuối cùng y rơi nước mắt trước mặt người khác: “Hoàng thượng, phụ thân của thần, huynh trưởng của thần, Tùng Tuyển… Thần, thần đã chẳng còn gì nữa rồi.”
Bây giờ nhìn lại Bùi Trường Hoài, từ nơi đau đớn nhất mà bò lên, Sùng Thiệu Đế vỗ vai y: “Mọi chuyện đều phải cẩn thận, mang tin thắng trận trở về.”
Bùi Trường Hoài nhẹ nhàng mỉm cười, cúi chào rồi rời khỏi.
Rời khỏi Minh Huy điện, Vệ Phong Lâm vẫn còn đứng chờ bên ngoài, hắn đã là binh dưới trướng Bùi Trường Hoài, tùy thời nghe sai sử.
Bùi Trường Hoài nhìn hắn, hỏi: “Triệu Quân đưa ngươi sang chỗ ta à?”
Triệu Quân không nói cho ai biết thương thế của hắn từ đâu mà có, nhưng Vệ Phong Lâm biết rõ, nhất định là Bùi Trường Hoài làm ra, lúc này thái độ càng thêm lạnh lùng.
“Tướng quân làm gì còn sức lực, tất cả đều do Thái sư sắp xếp.” Vệ Phong Lâm đáp: “Chính Tắc Hầu, trong triều người muốn tính kế ngài nhiều không đếm xuể, người không muốn ngài độc chiếm chiến công cũng không ít, nhưng Tướng quân dĩ nhiên không nằm trong số đó.”
Bùi Trường Hoài mỉm cười: “Mưu kế của hắn còn ít hay sao?”
Vệ Phong Lâm vốn kiệm lời, cũng không biết nên thay Triệu Quân biện giải như thế nào, chỉ nói: “Ngài căn bản không hiểu Tướng quân.”
“Bản hầu cũng không có hứng thú tìm hiểu.”
…
Ngày xuất chinh, chim ưng lượt cánh qua trời.
Ba ngàn quân tinh anh được chọn từ Bắc doanh ngồi trên lưng ngựa, tay nâng chiến kỳ đỏ thẫm.
Hành binh tựa như một con giao long, hùng dũng di chuyển trên đường lớn của kinh đô.
Trước cửa Hầu phủ, Từ Thế Xương đã đến tiễn Bùi Trường Hoài, hai người tẩu tử cũng chuẩn bị chút lương khô cho y.
Bùi Trường Hoài cảm tạ, mỉm cười nhìn Nguyên Thiệu đang nép sau lưng mẫu thân. Y vừa nhìn, Nguyên Thiệu đã òa khóc, vừa khóc vừa bổ vào lòng ngực Bùi Trường Hoài. Y bế Nguyên Thiệu lên, nhẹ giọng nói: “Cháu ngoan, nhớ nghe lời nương, chăm chỉ đọc sách với tiên sinh.”
Nguyên Thiệu muốn nói, lại quá gấp gáp nên không nói thành lời, chỉ ưm ưm a a, Bùi Trường Hoài vỗ lưng nó, để nó chậm rãi nói.
Nguyên Thiệu mới bập bẹ: “Tam thúc, trở lại… chuông… cái chuông… mất rồi, cha không về, nữa… thúc, thúc về…”
Mẫu thân của nó nghe thế, trong lòng lại nhói đau, xoay người lau nước mắt.
Bùi Trường Hoài mỉm cười, hôn lên gò má mũm mĩm của trẻ thơ, thả nó vào lòng Bùi Nguyên Mậu. Bùi Nguyên Mậu đón lấy đệ đệ, đôi mắt đỏ hoe.
Bùi Trường Hoài cất lời: “Lúc tam thúc không ở nhà, mọi chuyện trong Hầu phủ đều trông cậy vào con, trách nhiệm nặng nề, nhưng con đừng lo, thúc có cho người ở lại giúp con chống đỡ. Nhớ chăm sóc tốt nương và mẫu tử nhị thẩm.”
Bùi Nguyên Mậu trịnh trọng đáp: “Con biết rồi.”
Từ Thế Xương tay cầm quạt, vỗ lên ngực mình, dõng dạc nói: “Trường Hoài ca ca cứ yên tâm, không phải ta đã từng nói với huynh chuyện gì cũng còn có ta à. Chuyện của Hầu phủ cũng là chuyện của Từ Thế Xương, có ta ở đây không ai dám bắt nạt bọn họ đâu, kẻ nào dám làm thế chính là kẻ thù của Từ Thế Xương này! Sau này nếu có chuyện phiền phức ta sẽ thay huynh ra mặt, nếu ta giải quyết không được thì, thì…”
Y cười hì hì, khép quạt lại thấp giọng nói với Bùi Trường Hoài: “Thì ta sẽ vào cung đánh cờ với Hoàng thượng, để người vui vẻ rồi lại xin giúp đỡ! Nên huynh cứ yên tâm đi.”
Bùi Trường Hoài lùi về sau hai bước, trịnh trọng chắp tay: “Đa tạ.”
Từ Thế Xương nhận lấy lễ bái của Bùi Trường Hoài, trong lòng quyết tâm, chuyện y đã hứa nhất định sẽ hoàn thành.
Từ đây cáo biệt, lên ngựa viễn chinh.
Tướng quân trẻ tuổi mang giáp bạc, hông đeo bảo kiếm, tóc dài vấn lại dưới mũ đính lông vũ đỏ, áo bào khẽ phất trong gió xuân, tựa mây ráng hoàng hôn.
Trường kiếm rời vỏ, hướng thẳng trời xanh. “Xuất phát–!”
Hạ Nhuận, Vệ Phong Lâm một phải một trái, qua Tứ Hải quán đón Tra Lan Đóa, một hàng người ngựa hướng ra cổng thành.
Trăm ngàn bách tính tiễn quân, âm vang nhộn nhịp.
Lão binh xuất ngũ sau trận Tẩu Mã Xuyên lẫn trong đám đông, ai nấy đều nghiêm mặt, hành đại lễ: “Cung tống tiểu Hầu gia xuất chinh!”
Một tiếng lại tiếp một tiếng, như ngàn tiếng chuông ngân, tiễn Bùi Trường Hoài rời khỏi kinh đô. Móng ngựa đạp trên quan đạo, Bùi Trường Hoài ngẩng đầu nhìn tường thành sừng sững, nhất thời thất thần, lại không biết cảm giác mất mát này từ đâu mà có.
Vừa rời khỏi thành, phía sau đoàn quân đột nhiên vang lên tiếng móng ngựa vội vã, dường như là dùng tốc độ nhanh nhất đuổi theo, binh sĩ thấy rõ người tới là ai, không dám cản trở.
“Bùi Dục!”
Bùi Trường Hoài quay đầu, nhìn thấy Tạ Tri Quân, y khẽ chau mài, giơ tay ra hiệu cho đoàn quân dừng lại.
Tạ Tri Quân xuống ngựa, giơ tay nắm lấy dây cương của Bùi Trường Hoài, ngẩng đầu nhìn y: “Ta có chuyện muốn nói.”
Hơi thở của hắn gấp gáp, trên trán đã đẫm mồ hôi, ánh mắt càng thêm đen láy.
Bùi Trường Hoài đáp: “Thế tử gia, việc hành quân không thể chậm trễ, có việc gì ngày sau hẵng nói.”
Tạ Tri Quân đanh giọng: “Nếu ngươi không muốn làm mọi chuyện khó coi thì mau bước xuống!”
Tạ Tri Quân hành sự tùy hứng, nếu hiện tại không làm theo lời hắn e rằng chuyện càng thêm loạn.
Bùi Trường Hoài mím môi, dặn dò Hạ Nhuận dẫn quân đi trước, bản thân sẽ đuổi theo sau.
Hạ Nhuận gật đầu nhận lệnh. Lúc này chỉ còn lại hai người, Bùi Trường Hoài xuống ngựa, bước đến trước mặt Tạ Tri Quân, nói: “Ngài cứ nói đi.”
Gió phất qua ngọn cỏ xanh nhàn nhạt, Tạ Tri Quân cứ như bị ngọn gió thổi lung lay, bước lên một bước ôm chặt Bùi Trường Hoài.
Bùi Trường Hoài khó khăn lắm mới đứng vững, không biết nên làm sao thì nghe Tạ Tri Quân cất giọng: “Nhất định phải trở về, đây là mệnh lệnh, ngươi nghe rõ chưa?”
“Tạ…”
“Tại sao ngươi lại đáng hận như thế? Ở kinh đô có gì không tốt sao? Luôn nghe lời ta không được sao?” Tạ Tri Quân nghiến răng, đôi mắt phượng chỉ còn lại giận dữ, khuôn mặt đẹp đẽ dần trở nên hung ác méo mó: “Muốn làm chuyện gì thì đến cầu xin ta! Từ trước đến nay, chỉ cần ngươi mở miệng, ta chưa bao giờ từ chối!”
Bùi Trường Hoài cười mỉa: “Cái giá của sự giúp đỡ từ Thế tử gia quá đắt.”
“Nhưng ngươi khác, ngươi khác với tất cả…” Hắn nhắm mắt, gần như hét lên.
Lời này Tạ Tri Quân đã từng nói với y không chỉ một lần, nhưng Bùi Trường Hoài thật sự không biết bản thân y khác với con mèo con chó mà
hắn nuôi ở chỗ nào.
Không đợi Bùi Trường Hoài đẩy hắn ra, Tạ Tri Quân đã buông tay, sau đó giơ tay đeo một chiếc kim tự nha phù lên cổ y.
Tạ Tri Quân trừng mắt nhìn y: “Bùi Dục, ngươi nhất định phải trở về, nghe rõ chưa? Nếu ngươi dám ch/ết ở Bắc Khương, ta sẽ…”
“Sẽ thế nào? Đến lúc này ngươi còn muốn uy hiếp ta?” Tạ Tri Quân ngẩng người, không biết nên nói gì nữa.
Bùi Trường Hoài không rõ tương lai ra sao, cũng không biết có thể gặp lại kẻ này hay không, y nhớ lại chuyện xưa, nhớ lại bản thân từng cùng hắn kết bạn, nhớ tới từng cùng hắn ngắm hoa ngọc lan ở Lan Thương Uyển, đã đến lúc cáo biệt, thật sự cũng không mong làm mọi chuyện trở nên khó coi,
Bùi Trường Hoài cầm chiếc răng sói đã nạm vàng trước ngực, cất lời: “Cảm tạ ngài đến tiễn ta, tới đây là được rồi, trở về đi, Văn Thương.”