Trường Hoài cũng ngoan ngoãn ở lại, các học sinh khác đã ra về hết, y vẫn ở lại nghe tiên sinh giảng kinh văn, vì vậy rất ít khi y ra ngoài chơi đùa như bạn đồng trang lứa.
Trừ những lúc Tạ Tùng Tuyển tới.
Chẳng cần biết đã tới giờ tan học hay chưa, Tạ Tùng Tuyển lúc nào cũng tự nhiên leo tường vào dẫn y trốn học chạy ra ngoài phố, xem đủ thứ mới lạ trên đời.
Ban đầu Bùi Trường Hoài sợ chọc giận tiên sinh, không đồng ý cùng thiếu niên trốn học.
Tạ Tùng Tuyển cũng không ép y, chỉ lấy trong ngực ra một người rối nho nhỏ được làm bằng giấy dùng để biểu diễn rối bóng, vừa hát mấy câu lạc điệu, vừa điều khiển người rối, rồi lại tiếp tục hỏi: “Hôm nay phố Tây dựng đài biểu diễn tuồng ‘Xích Hà Khách’, kinh văn thì ngày nào cũng học, nhưng muốn xem biểu diễn thì một năm chỉ có một lần, ngươi không đi thật à?”
Bùi Trường Hoài nhìn con rối sặc sỡ, đắn đo tới nỗi cả mặt cũng đỏ hồng, cuối cùng mới thấp giọng hỏi: “Chỉ đi xem một canh giờ rồi về chắc không tính là trốn học đâu nhỉ?”
Tạ Tùng Tuyển cười ha ha: “Dĩ nhiên là không tính rồi.”
Có lần đầu thì sẽ có lần thứ hai, lần thứ ba… Nhiều lần rồi cũng có một lần bị tiên sinh bắt gặp.
Ngày đó, Bùi Trường Hoài vừa đứng trên vai Tạ Tùng Tuyển vừa leo ra khỏi tường, tiên sinh nhìn thấy, giơ cây thước gỗ trên tay, lớn tiếng mắng Tạ Tùng Tuyển: “Cái tên ngu ngốc trời đánh này!”
Tạ Tùng Tuyển quay đầu lại, cũng không sợ hãi, còn gập người hành lễ với tiên sinh: “Cảm tạ tiên sinh ban tên, tên ngu ngốc tạ lễ!”
Đôi mắt ấy toàn là kiêu ngạo bất kham, nói dứt lời liền vịn cành cây, leo ra ngoài, chỉ để lại hoa lê rơi như tuyết.
Hôm ấy Tạ Tùng Tuyển dắt tay y đi khắp phố phường, từ đường lớn hẻm nhỏ, các tiệm quán san sát nhau, cờ vải sặc sỡ phấp phới, người người nhộn nhịp qua lại.
Bên tai là các loại âm thanh rộn ràng, làm Bùi Trường Hoài hoa cả mắt, Tạ Tùng Tuyển vốn nắm lấy tay y, chẳng biết bị ai đâm sầm vào, hai đứa trẻ cứ thế lạc mất nhau.
Bùi Trường Hoài ngày thường đều ngồi xe ngựa ra ngoài, không biết đường đi, giữa phố xá đông đúc không ngừng đưa mắt tìm kiếm, lại chẳng thể tìm thấy bóng dáng của Tạ Tùng Tuyển.
Trường Hoài lúc nhỏ là quỷ khóc nhè, phụ thân nói y không có bản tính khát máu của con nhà tướng, lúc gặp chuyện việc đầu tiên làm là rơi nước mắt.
Lúc y gần như sụp đổ, tay y được ai đó nắm lấy, xoay đầu lại liền rơi vào ánh mắt Tạ Tùng Tuyển.
Tạ Tùng Tuyển thấy mắt y ướt nhòe, biết là y bị dọa, liền cười nói: “Khóc cái gì? Ta tìm thấy ngươi rồi, Trường Hoài.”
Hiếm khi mới gặp một giấc mơ đẹp lại bị những ý nghĩ hỗn độn phá rối.
Mộng cảnh biến thành ánh tàn dương đỏ rực phủ lên vách núi xám xịt của chiến trường Tẩu Mã Xuyên.
Bùi Trường Hoài nặng nề nhấc từng bước, dưới chân là hàng trăm hàng nghìn xác thịt, máu tanh ngập trời, thi thể thối nát, ruồi nhặng khắp nơi.
Máu tươi nhuộm hồng cả đất, chẳng khác gì địa ngục trần gian.
Y gần như ngộp thở, đột nhiên gió lạnh nổi lên, ngẩng mắt nhìn, chỉ thấy trên cột cờ cao ngút treo một cỗ thi thể mặc áo giáp bạc trắng kỳ lân.
Cơn gió ấy lạnh lẽo thấu xương, thổi vào tay áo y, khiến y bất giác run rẩy, thân thể ngã chúi về phía trước…
Rồi y đột nhiên tỉnh lại.
Phòng khách nhỏ, than vẫn rực hồng trong lò, bị gió thổi qua, sắc lửa càng đượm.
Cơn gió thổi vào phòng cùng người mở cửa.
Mắt Trường Hoài tối sầm, nhìn xuyên qua rèm lụa, chỉ thấy một dáng hình mơ hồ. Ngọc bội kỳ lân trên hông người đó đung đưa theo nhịp bước, phát ra âm thanh trong trẻo.
Trường Hoài ngẩn ra, trong phút chốc cứ tưởng mình vẫn còn trong mộng: “Tùng Tuyển?”
Đối phương vén rèm, khuôn mặt anh tuấn rõ ràng trước mắt, giọng nói trầm ấm: “Cuối cùng cũng tìm được ngươi, Trường Hoài.”
Trường Hoài lặng người.
Ngươi kia tiến lại càng gần, đưa tay nắm lấy cổ tay y, hơi thở ấm nóng phả trên mặt y.
Ánh mắt đối phương tựa như muốn giam cầm y lại, giây lát sau mới nói tiếp: “Hay ta nên cung kính gọi ngài một tiếng “Chính Tắc Hầu”?”
Bùi Trường Hoài lúc này mới hoàn toàn tỉnh táo. “Triệu Quân.”