Biên: Minh Nguyệt Châu Sa
***
Không giống những đám mây bay chậm rãi ngày thường, lúc này pháp vân lại được thi triển độn thuật hóa thành một đạo ánh sáng màu trắng ngao du giữa trời đất, mang đến cảm giác bay nhanh như chớp, nhất là với người bình thường lần đầu tiên được bay lượn như Tôn Nhã Nhã.
Kế Duyên chỉ đứng trên đụn mây nhìn về phương xa. Còn Tôn Nhã Nhã thì liên tục đảo mắt nhìn sông núi khắp nơi cùng với cảnh tượng vụt qua giữa bầu trời. Cảnh đẹp ngoạn mục như vậy giữa thiên địa làm cho nàng không kịp thích ứng.
‘Tiên tung khó tìm, vân du cửu thiên, cũng chính là tiên nhân giữa mây trời!’
Sau khi cảm giác sợ độ cao ban đầu dần giảm bớt, chỉ còn lại sự kích động và cảm xúc chờ mong mãnh liệt, mãi đến nửa canh giờ sau, rốt cục Tôn Nhã Nhã mới có thể bình tĩnh trở lại. Nàng nhìn Kế Duyên bên cạnh. Hai mắt hắn khép hờ như đang ngủ mơ, cũng có thể là đang thần du vật ngoại.
Đúng lúc đó, Kế Duyên mở mắt, nhìn Tôn Nhã Nhã giờ đây đã an tĩnh hơn.
“Muốn hỏi gì sao?”
Tôn Nhã Nhã khẽ cười.
“Tiên sinh, trên đời này có bao nhiên tiên nhân?”
Kế Duyên trả lời chẳng cần suy nghĩ.
“Nếu là loại tiên nhân mà ngươi đang nghĩ tới thì không nhiều lắm mà cũng không quá ít. Nhưng các tiên nhân thường tu hành ở đạo tràng, lại trải rộng khắp nơi trong thiên địa, vì vậy rất khó gặp được.”
Tôn Nhã Nhã nghe hiểu ý tứ trong lời nói của Kế Duyên, lại hỏi một câu.
“Vậy những tiên nhân mà tiên sinh quen biết thì sao? Khoảng bao nhiêu ạ?”
Kế Duyên nhìn nàng rồi lại nhìn bầu trời ở phương xa.
“Rất ít.”
“À, tiên sinh, có phải chúng ta sẽ đến một tòa tiên sơn rất nổi danh ở Tịnh Châu Vân Sơn không? Đạo tràng của tiên nhân gọi là Vân Sơn hay có tên gọi khác ạ?”
Kế Duyên nở nụ cười, thẳng thắn trả lời.
“Ở Vân Sơn Quan trên Vân Sơn, tất cả đều không có tiếng tăm gì, thậm chí người trong tiên đạo cũng chẳng biết tới nữa.”
Nghe nói vậy, hai mắt Tôn Nhã Nhã sáng lên. Nàng không hề cảm thấy một nơi không có danh tiếng như lời nói của Kế tiên sinh có gì là không tốt cả.
“Vậy giống như ‘ẩn sĩ’ trong tiên đạo phải không ạ?”
“Sao lại nghĩ như vậy?”
Kế Duyên hơi tò mò hỏi lại. Tôn Nhã Nhã cười tít mắt, hai mắt và khóe miệng cong lên như hình trăng lưỡi liềm.
“Bởi vì ta cảm thấy rất giống tiên sinh. Danh tiếng không lộ, ít người biết rõ nhưng lại là cao nhân chân chính...”
Nói tới đây, Tôn Nhã Nhã dừng một lát, sau đó nói tiếp.
“Tiên sinh, sách được Vân Sơn Quan truyền lại có lợi hại không?”
Về chuyện này thì Kế Duyên cũng chẳng cần phải khiêm tốn. Hắn cười nói.
“Cực kỳ cao minh đấy!”
Tôn Nhã Nhã tươi cười, dáng vẻ “quả là như thế”. Tuy nàng không biết Kế tiên sinh đứng thứ hạng nào trong các tiên nhân nhưng cho tới bây giờ, nàng đều tin tưởng vào ánh mắt của Kế tiên sinh.
Vẫn chưa tới giữa trưa, Vân Sơn đã ẩn hiện trong tầm mắt. Tôn Nhã Nhã nhìn ra xa, khắp đại địa Tịnh Châu rộng lớn chủ yếu là đồng bằng, dù có núi thì cũng chỉ là một vài ngọn núi nhỏ. Còn Vân Sơn ở phương xa xứng đáng được gọi là độc nhất.
Trong Vân Sơn Quan, hiện tại không chỉ có mỗi hai đạo sĩ là Thanh Tùng và Thanh Uyên đạo nhân, mà còn có thêm một vài đứa trẻ từng được thu nhận lên núi cách đây vài năm trước.
Đã gần mười năm kể từ khi Kế Duyên để lại phần thượng của “Thiên Địa Diệu Pháp” tại Vân Sơn Quan. Trong mười năm này, Thanh Tùng đạo nhân và Thanh Uyên đạo nhân cũng không hề lười biếng. Cả hai luôn tu hành cần cù, cũng không quên sửa sang lại điển tịch Đạo môn cho phù hợp. Sau mấy năm đầu củng cố việc tu hành, càng ngày họ càng đi đúng hướng, mà Vân Sơn Quan cũng tiến vào quỹ đạo.
Chỉ là, Thanh Tùng đạo nhân vẫn thỉnh thoảng đi đoán tướng số cho mọi người, tìm địa điểm bày quầy hàng, hoặc đi dạo một vòng xem có thể gặp ai có tướng mạo đặc biệt hay không. Cũng chính là trong lúc ấy, mới lần lượt thu nhận vài đứa nhỏ vào Vân Sơn Quan.
Khi Kế Duyên cưỡi mây đưa Tôn Nhã Nhã bay đến, Tần Tử Chu đã đợi sẵn trên Yên Hà phong. Khi trông thấy Kế Duyên và một vị cô nương đang giẫm mây trắng bay tới ở phương xa, đứng từ đỉnh núi đá lớn bên này, lão bèn chắp tay vấn lễ từ xa.
“Kế tiên sinh, đã lâu không gặp!”
Kế Duyên cũng chắp tay đáp lễ từ khóm mây.
“Chào Tần công!”
Tôn Nhã Nhã cũng giật bắn cả mình, nhanh tay thi lễ theo Kế Duyên.
“Vãn bối Tôn Nhã Nhã, ra mắt Tần công!”
Tần Tử Chu vuốt râu, gật đầu, sau đó đánh giá vị cô nương trẻ trung này trong khi Kế Duyên và Tôn Nhã Nhã đáp xuống đỉnh núi.
“Thật là một cô bé thanh tú.”
“Tần công quá khen, đây là do Kế tiên sinh dạy bảo tốt đấy ạ!”
Lời nói của Tôn Nhã Nhã chỉ là khiêm tốn, nhưng khi vừa nghe xong thì vẻ mặt của Tần Tử Chu lại tỏ ra vô cùng ngạc nhiên. Lão nhìn Kế Duyên, sau đó quay sang Tôn Nhã Nhã.
“Ngươi là đệ tử của Kế tiên sinh à?”
“Nhã Nhã còn kém xa lắm. Tiên sinh chỉ dạy ta viết chữ mà thôi...”
Vốn dĩ, Tôn Nhã Nhã muốn thừa nhận ngay lập tức. Nhưng khi liếc sang Kế Duyên, nàng vẫn không dám nhận bừa. Tuy vậy, câu trả lời của nàng cũng hết sức khéo léo, lúc nói chuyện còn liếc trộm Kế Duyên.
Kế Duyên lại từ chối cho ý kiến, chỉ nhìn về hướng Vân Sơn Quan mà nói.
“Trái lại, Vân Sơn Quan càng có vẻ nhộn nhịp hơn nhỉ?”
Tần Tử Chu cười gật đầu.
“Đúng vậy! Không thể để vắng ngắt như lúc trước được, dù sao cũng mang dáng vẻ là gốc gác của Đạo gia mà. Thôi, chúng ta xuống dưới nói chuyện. Kế tiên sinh, mời!”
“Tần công, mời!”
Hai người bước đi xuống núi, Tôn Nhã Nhã thè lưỡi, nhanh chóng theo sát phía sau. Trên đường xuống núi, Tần Tử Chu cũng kể cho Kế Duyên nghe về xuất xứ của bốn đứa nhỏ từng được thu nhận vào quan sau đó.
Trước hết, lão kể về một trường hợp thú vị nhất. Hóa ra, chuyện đơn giản chỉ là, bị Thanh Tùng đạo nhân lừa gạt mà đến đây.
Nghe nói vài năm trước, do duyên phận, Thanh Tùng đạo nhân gặp một đứa trẻ tại một con phố nào đó nơi Tịnh Châu. Càng nhìn, lão càng cảm thấy đứa trẻ này rất có triển vọng, mà tâm tính của nó cũng rất tốt. Thế nên, lão lén lút quan sát đứa trẻ ấy trong khoảng nửa tháng. Mỗi lần xuống núi, lão ta đều quay lại gặp đứa trẻ. Có đôi khi, lão giả vờ tình cờ gặp nó, đôi khi lại là âm thầm theo dõi. Phải mất khoảng hai năm, Thanh Tùng đạo nhân mới đưa ra quyết định thu đệ tử.
“Ồ, vậy đứa nhỏ này là đứa lên núi đầu tiên sao?”
Tần Tử Chu không khỏi nở nụ cười khi nghe Kế Duyên hỏi vậy.
“Tiên sinh đừng gấp, Tần mỗ còn chưa kể hết. Tề Tuyên muốn thu đứa nhỏ này làm đồ đệ, nhưng dù lão muốn thu, cũng không đồng nghĩa là người ta đồng ý lên núi. Nhất là phụ mẫu của đứa nhỏ ấy cứ xem lão đạo sĩ này là một ngôi sao tai họa nha. Đứa trẻ mới bảy tuổi, lại có một đạo sĩ nói muốn đưa nó lên núi tu hành. Do đó, phụ mẫu của nó không hề muốn như vậy, đặc biệt là khi thấy lão đạo sĩ ấy bị người khác đánh trong lúc xem tướng số cho thiên hạ nữa chứ...”
Nghe thế, Kế Duyên mỉm cười, Tôn Nhã Nhã cũng lấy tay che miệng lại. Nàng biết, người được gọi là Thanh Tùng đạo nhân kia hẳn là một vị cao nhân, nhưng vị Tần lão tiên sinh này kể chuyện cũng quá thú vị rồi. Nàng chưa bao giờ nghe nói về việc thần tiên bị phàm nhân đánh cả.
“Và sau đó?”
“Ha ha, và sau đó, từ dùng phương pháp dụ dỗ, chèo kéo, thậm chí là cứng rắn, rốt cuộc cũng có thể kiên nhẫn đến lúc phụ mẫu của thằng nhóc ấy hiểu rằng: dù có là đạo sĩ thì cũng có thể kết hôn và sinh con. Từ đó, việc học Đạo cũng có thể được xem như một hình thức học nghề mưu sinh, cộng thêm việc đứa trẻ kia cứ gọi lão ấy bằng “sư phụ, sư phụ” liên tục, cuối cùng mới có thể khiến bậc phụ mẫu kia miễn cưỡng đồng ý.”
Kế Duyên vô cùng kinh ngạc khi nghe vậy. Cách tiên đạo thu đồ đệ của Thanh Tùng đạo nhân thế này, liệu có phải là mới gặp lần đầu tiên trên đời này hay không?
“Từ đầu đến cuối, Thanh Tùng đạo nhân đều không thi triển diệu pháp tiên đạo à?”
Tần Tử Chu cười nói.
“Cũng không hiển lộ bản thân là một kỳ nhân, nhưng ít nhất là cũng bày biện ra một vài thủ đoạn đấy. Nếu không, phụ mẫu nhà đó vẫn không đồng ý. Nhưng chắc chắn rằng, họ không bao giờ nghĩ Tề Tuyên là tiên nhân cả, cao lắm thì chỉ xác định lão ấy là một vị pháp sư biết xem tướng số mà thôi.”
Ba đứa trẻ còn lại thì có số phận khốn khổ hơn một chút, thời gian thu nhận cũng cùng năm với đứa nhỏ đầu tiên. Tại phủ Thủy Lâu, Tịnh Châu, từng có một vụ án nghiêm trọng được gọi là “Lược nhân án” (một cách gọi của hành vi bắt cóc thời cổ đại). Quan chủ thẩm của án này chính là tri phủ của phủ Thủy Lâu, đồng thời cũng là một trong những học trò của Phụ tể đương triều Doãn Triệu Tiên. Sau quá trình xử án công chính, có mười người bị kết án vì tội “Lược nhân” đó, rồi nhận lấy hình phạt “trách hình.” (Xử trảm, sau đó phân thây.)
Sau khi hung thủ bị xử tội, đã tìm được 30 đến 40 đứa nhỏ bị bắt cóc trong vụ án ấy. Dù đã cố gắng hết sức để đưa tất cả về quê cũ, trừ một số ít có thể về lại gia đình mình, thì dù hung thủ có chỉ điểm tường tận nhưng cũng khó mà tìm ra được tới nơi, tới chốn.
Kết quả, tình cờ Thanh Tùng đạo nhân đang ở gần đó, thế nên đã sử dụng quẻ thuật để trợ giúp quan phủ tìm kiếm địa chỉ nhà ở của bọn nhóc này. Đáng tiếc thay, vẫn còn ba đứa nhỏ với địa chỉ quá mơ hồ, lão ấy không thể tính ra, cuối cùng đành phải dẫn bọn nhỏ này về núi.
Sau khi nghe trải nghiệm sống của bốn nhóc đệ tử mới tại Vân Sơn quan, nhóm ba người Kế Duyên cũng vừa lúc đi gần đến nơi, tình cờ giáp mặt với Tề Văn đang chuẩn bị xuống núi lấy nước.
Thấy nhóm người Kế Duyên tại đó, Tề Văn hiển nhiên là ngây ngẩn một lúc, sau đó mới lộ rõ vẻ vui mừng.
“Kế tiên sinh, ngài đến rồi ư? Còn vị này là...?”
“Vãn bối Tôn Nhã Nhã, từng học thư pháp của Kế tiên sinh trong một vài năm.”
Trước cử chỉ chào nghiêm nghị của Tôn Nhã Nhã như thế, Tề Văn nhanh chóng đặt cây đòn gánh xuống, sau đó lập tức chắp tay đáp lễ.
“Tại hạ là Tề Văn, đạo hiệu Thanh Uyên.”
Nói xong, y vội vàng quay sang Kế Duyên và Tần Tử Chu, hành lễ trước trưởng bối. Tiếp đến, Tề Văn lập tức nghênh đón nhóm người Kế Duyên vào nội viện, cũng không quên hô to vào trong Vân Sơn Quan.
“Sư phụ, Kế tiên sinh đến rồi!”
Đang dạy mấy đứa nhỏ và hai con chồn xám luyện tập các bài quyền dưỡng sinh tại một góc nào đó trong Vân Sơn Quan, Tề Tuyên vừa nghe thế thì lập tức nhìn về phía cửa sân, tỏ vẻ vui mừng, sau đó tranh thủ nói nhanh với bọn nhóc bên cạnh.
“Nhanh, nhanh lên! Đi theo ta chào hỏi Kế tiên sinh! Chính là vị Đạo lão gia trong bức tranh kia đấy!”
Ngay khi bước vào cửa, Kế Duyên đã nhìn thấy Thanh Tùng đạo nhân dẫn theo bốn đứa trẻ chạy lúp xúp đến. Không những thế, còn có hai con chồn xám nhỏ đi theo. Vừa đến trước mặt, dù là người hay chồn, đều hành lễ với Kế Duyên.
“Bái kiến Kế tiên sinh!”
“Ra mắt Kế lão gia!” “Xin chào Kế lão gia!” “Chít... chít!”
Giọng điệu của không đều, cách xưng hô cũng không đồng nhất, nhưng quả thật là khá náo nhiệt.
Mà cũng đúng, nay đã có thêm bốn đứa trẻ, mà trông hai con chồn xám kia cũng giống như hai gã đệ tử thực thụ vậy. Cả tòa Vân Sơn Quan sôi nổi hơn trước rất nhiều. Và dĩ nhiên, với Tôn Nhã Nhã trẻ trung, xinh đẹp, học thức uyên bác và quyến rũ, thì chỉ cần hai ngày là cô nàng đã có thể hòa mình cùng bọn nhỏ nơi đây. Không những thế, nàng ta và bọn nhóc còn cùng đi chiêm ngưỡng hai bức tranh cực kỳ sinh động được treo ngay đại điện nữa.
Từ đó mà Tôn Nhã Nhã mới biết rằng, Kế tiên sinh thực sự được gọi là “Đại lão gia” ở đây, trong khi Tần lão gia tử chính là một vị “Thần quân”, vừa nghe qua là đã thấy rất lợi hại rồi.
Bên cạnh đó, thời điểm hiện tại cũng là lúc mà những đứa trẻ này đã tu tập kinh sách cơ bản của Đạo môn và quyền pháp dưỡng sinh được ba năm. Cũng giống như Tôn Nhã Nhã, mấy đứa nhóc này cũng vô cùng háo hức khi sắp được đọc “Thiên Địa Diệu Pháp” lần đầu tiên.
... .
========== Truyện vừa hoàn thành ==========
1. Mùa Xuân Trong Đôi Mắt Tôi
2. Sẩy Chân Bước Vào Tim Anh
3. Chân Thành Của Trái Tim
4. Không Hận
=====================================
Vào đêm thứ ba, Kế Duyên và Tần Tử Chu cùng nhau ngắm trăng sao trên đỉnh Yên Hà phong.
Uống xong một tách trà mật hoa táo, Tần Tử Chu ngẩng đầu nhìn vầng trăng sáng, nói khẽ.
“Kế tiên sinh, dù sao đi nữa thì Tần mỗ cũng không phải là một vị Giới Du thần chân chính. Bộ “Thiên Địa Diệu Pháp” có hai phần, thượng và hạ, cộng với “Diệu Hóa Thiên Thư,” một bộ sách không những là Thiên thư về Khí đạo mà còn liên quan đến nguyên lý của Âm Dương, Ngũ Hành. Tất cả đều là vật mang tính chất chiếm đoạt tạo hóa của thiên địa. Do đó, nội tình của Vân Sơn Quan đã đủ sâu dày rồi, nếu nhiều hơn nữa thì ta e là sẽ không thể gánh chịu nổi!”
Kế Duyên đặt tách trà trong tay xuống, gật đầu.
“Đúng là như vậy! Vả lại, ta và ngươi cũng không tiện can thiệp quá nhiều vào sự vụ của Vân Sơn Quan. Bằng không, sẽ dễ dàng khiến các đạo sĩ kia ỷ lại.”
“Đúng vậy, Tần mỗ cũng nghĩ thế. Trong hai năm qua, ngoại trừ những lúc Thanh Tùng bất chợt có nghi hoặc mà đến để cầu giải đáp, Tần mỗ cũng hiếm khi xuất hiện. Đa phần, ta chỉ dành thời gian để thần du, tầm tinh nạp linh ở các phương trời (ý bảo, xuất khiếu, dạo chơi, tìm tinh tượng hay linh thể... ở bốn phương).