Biên tập: Neyse.
Sửa lỗi: Hải Miên Bảo Bảo.
Đêm tối, mưa gió mịt mù.
Mặt trời đã lặn, khắp nơi tối đen như mực, sấm chớp dồn dập, gió hô mưa gào, đèn đuốc vốn sáng trưng trên đường tập trung soi rọi sự ầm ĩ người ngựa tán loạn. Mấy tiểu thương cuống quýt dọn sạp hàng, người bán hàng rong dựa vào đòn gánh tránh mưa ở dưới quán trà, nhân tiện mua một chén Cao Toái[1] nóng hổi. Xa phu vội vàng đánh xe ngựa, bánh xe cán qua một cái ki hốt rác lăn lông lốc giữa phố. Người qua đường dùng ống tay áo ôm đầu chạy, chẳng mấy chốc toàn thân đã bị nước mưa tưới ướt sũng.
[1] Cao Toái: là một loại trà chỉ có ở Bắc Kinh ngày xưa. Vụn trà bị bỏ đi và không có tác dụng ở những nơi khác, nhưng ở Bắc Kinh xưa, chúng là nguyên liệu pha trà rất phổ biến cho người nghèo.
Trong một cái sân nhỏ phía sau chùa Phúc Tường ở Tĩnh Cung Phường, Thẩm Quyết bưng tách trà nóng ngồi dưới mái hiên, bên chân là chiếc ô giấy đang tựa vào. Lá rụng trong viện bay là tà, y lẳng lặng nghe âm thanh dòng người hối hả bên ngoài, cùng tiếng mưa rơi giòn giã.
Giữa màn mưa tầm tã, y loáng thoáng nghe thấy tiếng vó ngựa ầm ầm như sấm rền càng lúc càng lớn, đó là một nhóm người áo đen khoác áo tơi đang dầm mưa chạy tới. Y cúi đầu thở dài một hơi, đôi mắt mắt tĩnh mịch như ánh trăng nhìn vào trong đình.
Mười năm, từ khi từ biệt ở lãnh cung, y và Hạ Hầu Liễm đã chia ly mười năm.
Lúc đầu, y còn nghe được tin tức của Hạ Hầu Liễm – Vô Danh Quỷ kế thừa Hoành Ba là nhân tài mới xuất hiện của Già Lam, mang theo con rối Chiếu Dạ hành tẩu trong đêm tối, giết người một cách lặng lẽ. Về sau, y lại nghe đồn Hạ Hầu Liễm qua lại với kỹ nữ Tô Châu và Hàng Châu, say mê ca hát, hành vi phóng đãng, khiến cho xướng nữ và kỹ nữ lấy làm tự hào vì điều đó. Sau đó nữa là tin tức đến từ nội ứng ở Già Lam, một mình Hạ Hầu Liễm ám sát Thí Tâm, Già Lam nội loạn, mà Hạ Hầu Liễm thì mất tích, bặt vô âm tín.
Hạ Hầu Liễm giống như giọt sương bốc hơi dưới ánh mặt trời, biến mất không thấy bóng dáng.
Một năm trước, thuộc hạ của y vô tình phát hiện Hoành Ba được bán đấu giá ở chợ đen Đài Châu. Y thẩm vấn người bán đấu giá, gã khai rằng Hoành Ba được nhặt từ trong đống xác chết sau khi giặc Oa tấn công Đài Châu. Nhưng không có cách nào chứng minh Hạ Hầu Liễm đã từng đi qua Đài Châu cả. Thật ra, từ khi Hạ Hầu Liễm rời khỏi Già Lam đã qua ba lần rằm tháng bảy, hắn tuyệt đối không có khả năng còn sống.
Mới đầu Thẩm Quyết còn ôm hy vọng, càng về sau, hy vọng lại càng xa vời, cho đến hôm nay, có lẽ là lúc y nên đối mặt với hiện thực. Hạ Hầu Liễm, thích khách kia có lẽ đã chết vào ngày ám sát Thí Tâm, cũng có thể đã chết vào một đêm nào đó vì Thất Nguyệt Bán phát tán. Thi thể thối rữa trong bụi đất, bị kền kền rỉa thịt, bị giòi bọ cắn xé. Cuối cùng thì “Vọng Quy” cũng không thể đưa đến tay Hạ Hầu Liễm.
Từ nay về sau, ngoại trừ kiếp sau thì y và Hạ Hầu Liễm không còn cơ hội trùng phùng nữa.
Mưa gió lá rụng đầy đình, y cúi đầu nhìn dòng nước chảy ào ạt cùng với lá cây trôi dưới mái hiên, y duỗi tay hứng những giọt mưa rơi trên ngói, lòng bàn tay lạnh buốt, gió thổi lướt qua, khiến gò má cũng lạnh lẽo theo.
Hiện giờ, bệnh tình của lão hoàng đế nguy kịch, đơn thuốc được kê liên tiếp, nhưng lại không khởi sắc lên chút nào. Cuối cùng y cũng đoạn tuyệt với Ngụy Đức, đẩy bản thân vào hoàn cảnh vạn kiếp bất phục. Văn võ cả triều này, một nửa cười trên nỗi đau của người khác, chỉ biết khoanh tay đứng nhìn, nửa còn lại thì quạt gió thêm củi, chỉ mong y chết càng sớm càng tốt.
Hạ Hầu Liễm không còn trên đời, y cũng không còn điểm tựa trong lòng mình nữa, cuối cùng cũng có thể vứt bỏ tất cả mà liều mạng đánh cược một lần. Trận chiến này, thành bại chớ luận, sống chết do trời.
Tiếng vó ngựa dừng trước cửa, có người gõ cửa cộc cộc. Y không trả lời, cánh cửa tự mở ra, Tiền Chính Đức cầm ô nghênh ngang đi vào, gã mặc duệ tát thêu mãng xà đỏ rực, dưới chiếc mũ thêu chỉ vàng là gương mặt béo rửng mỡ trắng múp, đôi mắt bị thịt trên má bị ép thành một cái khe hở.
Thẩm Quyết rơi đài, gã được thăng chức lên làm chấp chưởng Đông Xưởng, trở thành Đề đốc oai phong lẫm liệt vô cùng có thể diện. Vật đổi sao dời, lời này rất có lý, Thẩm Quyết vẻ vang nhiều năm như vậy, chèn ép gã khắp nơi, bây giờ cuối cùng cũng đến lượt gã. Gã thong thả đi vào trong đình, từ trên cao nhìn xuống Thẩm Quyết, đôi môi mỏng đỏ au khẽ cong lên, gã cười nói: “Thẩm công công, đã lâu không gặp.”
Thẩm Quyết cũng gật đầu: “Nhọc Tiền công công lo lắng rồi.”
Thẩm Quyết ngồi trên ghế bành gỗ hoa lê, tay cầm chung trà vững chắc, y cười nói tự nhiên, hệt như kẻ sa cơ thất thế bây giờ không phải y mà là con mèo con chó ven đường nào đấy. Tiền Chính Đức lạnh lùng nhìn y, trong lòng cười nhạo y làm bộ làm tịch.
“Bệ hạ ban chỉ, yêu cầu công công đến Nam Kinh thủ lăng[2], hôm nay phải khởi hành ngay. Dù gì thì lão tổ tông cũng có lòng dạ Bồ Tát, nể tình ngài tốt xấu gì cũng theo người ta mười năm, nên đặc biệt phái chúng ta đến đưa công công một đoạn đường.” Tiền Chính Đức khom người cười nói, “Nam Kinh là một địa phương tốt, chúng ta nghe nói sông Tần Hoài hàng đêm sênh ca, thích hơn kinh thành nhiều. Thẩm công công đến chỗ đó sống yên ổn vẫn có thể xem là một chuyện tốt.”
[2] Thủ lăng: trông coi lăng mộ.
“Thái giám thường lui tới Nam Kinh thủ lăng, có một con ngựa già không cần đi bộ là không tệ rồi. Ta là một phế nhân không quyền không thế, lại phiền Tiền công công hạ mình hộ tống, đúng là được thương mà sợ đấy.” Thẩm Quyết cúi đầu vuốt ve chén trà men sứ trong tay, khóe miệng khẽ nhếch lên, “Chỉ e Tiền công công muốn đưa không phải Thẩm Quyết, mà là cái xác của Thẩm Quyết đây mới đúng. Nếu không lầm thì thích khách tới ám sát ta ngày hôm trước cũng là tác phẩm của cha nuôi nhỉ. Thẩm Quyết ta có tài đức gì mà có thể khiến cha nuôi kiêng kị như thế này.”
Tiền Chính Đức ngửa đầu cười ha hả: “Thẩm Quyết ơi là Thẩm Quyết, lòng đã tỏ tường rồi, hà cớ gì phải chọc thủng nó chứ? Hoa trong gương, trăng trong nước, tuy là một ảo ảnh chập chờn, chỉ cần ngươi không di chuyển nó, nó vẫn là cảnh đẹp ý vui như cũ. Bọn ta vốn định chờ ngươi khởi hành thì sẽ bỏ một ít thuốc trong cơm canh của ngươi, để ngươi ra đi một cách nhẹ nhàng. Bây giờ xem ra chắc cũng không cần nhỉ.”
Nói xong, gã lại lắc đầu: “Cây đổ bầy khỉ tan, nhưng dù sao cũng là một cây đại thụ cành lá tốt tươi, rễ cuộn chằng chịt, không tìm được cách để cắt bỏ. Lão tổ tông kiêng kị vây cánh của ngươi, đêm không thể ngủ, chỉ còn cách để ngươi đi gặp Diêm Vương gia thì lão tổ tông mới có thể yên tâm mà ngủ. Hầy, ngươi là người hiểu chuyện, cũng là một kẻ ngốc. Đang làm Đề đốc Đông Xưởng êm đẹp như thế, hà tất khiêu chiến với lão tổ tông làm gì? Để rồi cuối cùng rơi vào hoàn cảnh thế này.”
Thẩm Quyết không đáp, y nhìn Tiền Chính Đức, đoạn nở một nụ cười nhàn nhạt, sau đó hỏi: “Xin hỏi năm nay cha nuôi bao nhiêu tuổi rồi?”
“Lão tổ tông tám mươi mốt rồi.” Tiền Chính Đức không rõ dụng ý của Thẩm Quyết, thuận miệng đáp.
“Tám mươi mốt…” Thẩm Quyết thấp giọng lẩm bẩm, mặt mày cúi xuống, hàng mi cong cong, nhưng khi ngước mắt lên lại đượm nồng khói mù, đuôi mắt toàn là mưa gió tối tăm, y gần như nghiến răng nói: “Tám mươi mốt, gần đất xa trời rồi, ai có thể đoán được khi nào lão ta sẽ lìa đời chứ? Làm sao mà ta có thể để lão ra đi thanh thản được!?”
“Ngươi…” Ngón tay run rẩy của Tiền Chính Đức chỉ vào y, “Ngươi đúng là điên rồi!” Gã hét lớn, “Không ngờ ngươi che giấu dã tâm như thế, xem ra hôm nay ngươi đừng hòng bước qua cánh cửa này. Người đâu! Giết tên súc sinh này cho ta!”
Có rất nhiều mũi tên bắn ra từ trên tường viện, nhóm phiên tử đứng ở trên vai đồng bạn đặt nỏ tiễn lên đầu tường, nhắm vào Thẩm Quyết ở dưới hiên, đầu mũi tên sắc bén lóe lên ánh sáng lạnh lẽo. Thẩm Quyết vẫn không nhúc nhích, trà trong tay đã lạnh, nhưng mưa vẫn nặng hạt như cũ, những bông hoa tú cầu tròn trịa nơi góc tường cũng bị bắn nát tan tành.
Tiền Chính Đức rống to: “Bắn tên!”
Từng đợt mũi tên bắn ra, mấy chục đường tên xé toạc màn đêm âm trầm chui vào màn mưa dày đặc. Hàng mi cong dài của Thẩm Quyết khẽ run lên, trong tầm mắt của y, gã thái giám mập mạp nặng nề quỳ thụp xuống đất, sau đó ngã vật ra đất, để lộ rừng tên đen nhánh chằng chịt phía sau lưng. Gã gần như bị ghim thành một con nhím, đôi mắt trợn trắng lên với ánh mắt khó mà tin nổi, máu tươi tràn ra dưới thân thể gã, hoà cùng với nước mưa thấm qua rêu xanh lạnh lẽo rồi chảy vào cống ngầm ven tường.
Thẩm Quyết buông chén trà xuống, mở dù giấy ra, đạp lên gương mặt đầm đìa máu tươi của Tiền Chính Đức bước ra ngoài cửa. Nhóm phiên tử đứng dưới mưa, hạt mưa đầm đìa thấm ướt nỏ tiễn đen nhánh, bên dưới lớp áo tơi, duệ tát màu đen thêu hoa văn kỳ lân đang giương nanh múa vuốt trợn mắt nhìn chằm chằm. Tư Đồ Cẩn khoác áo tơi lên vai Thẩm Quyết, Thẩm Quyết ghìm chặt cương ngựa, gật đầu với nhóm phiên tử.
“Đa tạ chư vị huynh đệ.”
“Đốc chủ quá lời! Ba năm trước, nếu không có đốc chủ thanh tra án oan của cẩm y vệ thì tiểu nhân đã sớm mất mạng ở trong ngục rồi!” Có phiên tử hô to.
“Đốc chủ chỉ cần có tài là tiến cử, nếu không phải đốc chủ, hôm nay tiểu nhân vẫn là một giáo uý vô danh!”
“Ngụy Đức dùng người thiên vị[3], không có đốc chủ, chúng ta căn bản không thể thoát ra được!”
[3] Ở đây ý bạn này nói Ngụy Đức chỉ toàn dùng người COCC, không xét tài đức phẩm hạnh.
Nhóm phiên tử đồng loạt quỳ xuống đất, hô to: “Ta nguyện chinh chiến vì đốc chủ, thề sống chết nguyện trung thành!”
“Nếu không có chư vị huynh đệ, cũng không có Thẩm Quyết ta!” Thẩm Quyết xoay người lên ngựa, nhìn về phía hoàng cung, “Ngày ta quay về kinh thành, đó là lúc Ngụy Đức chết!”
Trong đêm mưa lạnh lẽo, nhóm người cưỡi ngựa giống như một làn sóng ngầm mãnh liệt phi vào màn mưa dày đặc.
————————————
Trời vừa sáng, sắc trời một màu xanh mơ màng, mặt trời ở phía đông dần dần dâng lên. Trong con ngõ son phấn[4] yên tĩnh, khác xa với cảnh tượng oanh ngàn yến vạn, ánh đèn rực rỡ đầy ngõ vào buổi đêm. Ở phòng chất củi Vân Tiên Lâu, Hạ Hầu Liễm ngồi dậy trên chiếc giường trải cỏ khô, nheo mắt đi ra ngoài rồi múc nước bên giếng đánh răng súc miệng rửa mặt, chuẩn bị sẵn sàng, sau đó đi qua cửa hông đến phòng bếp nấu nước. Trên đường gặp một gã sai vặt khác, bọn họ gật đầu với nhau xem như đã chào hỏi. Hắn xách từng thùng nước đến đặt trước cửa sương phòng phía tây ở hậu viện. Trước cửa sương phòng treo một tấm mộc bài, phía trên có ba chữ to viết bằng bút —— “Ôn Nhu Hương”, bên trong im ắng, có lẽ còn đang ngủ.
[4] Ngõ son phấn: aka phố đèn đỏ.
Hạ Hầu Liễm bưng nước tiến vào phòng bên cạnh, đổ vào thùng tắm làm bằng gỗ táo. Căn phòng bừa bộn khắp nơi, trên mặt đất là một đôi giày thêu hoa phượng tiên, dưới bàn còn có một cái áo nhũ đỏ bạc nhăn nhúm trông như giẻ lau. Chậu rửa mặt rơi xuống đất, bình sứ hình vuông cũng đổ, nước bên trong đã khô, cánh hoa huệ bị giẫm nát bươm trên mặt đất. Có thể thấy đêm qua đã có một trận “đại chiến” ở đây.
Hạ Hầu Liễm giả vờ như không nhìn thấy, hắn đổ nước vào thùng, sau đó rắc một lớp cánh hoa hồng thật dày lên, nhất định phải che hết mặt nước mới được.
Đây là quy tắc của hoa khôi ở Vân Tiên Lâu, A Sồ, mỗi sáng đều phải tắm hoa một lần. Bốn tháng trước Hạ Hầu Liễm đến Vân Tiên Lâu, có lẽ đã xách nước cho A Sồ tắm được bốn tháng rồi. Hắn đặt thùng gỗ không ở cửa, đến phòng bếp cầm một cái bánh nướng, năm cái màn thầu chay và một bình nước rồi ngồi trên hành lang ăn một cách thong thả. Việc của hắn không nhiều lắm, không cần phải vội.
Tối hôm qua mưa to, mặt đất vẫn còn rất ướt, trong khe gạch đều là nước. Hoa cỏ bên trong đã bị héo bẹp, hai bồn lan quân tử mà A Sồ thích nhất đã chết, cánh hoa trắng nõn rơi rụng đầy đất. Tối hôm qua hắn quên lấy hoa vào nhà, lát nữa A Sồ thấy sẽ ầm ĩ cho coi. Sân bên cạnh đang cãi cọ ồn ào, đó là kỹ viện tướng công, bên trong đều là nam kĩ, có tướng công tính tình không được tốt, thường xuyên có mấy tên sai vặt bị gã đánh cho gần chết, rồi chạy tới tố khổ với Hạ Hầu Liễm.
Thời gian trôi qua quá nhanh, hắn rời Già Lam đã được ba năm. Ngày đó ở Già Lam, hắn cho rằng hắn sẽ chết vì mất máu quá nhiều, nhưng hắn lại tỉnh dậy một cách yên lành, hắn đau đầu suy nghĩ nửa ngày, cuối cùng lên núi Tê Hà tìm Thu Sơn. Thu Sơn là trụ trì của chùa Tê Hà, ông cho Hạ Hầu Liễm làm tăng để tóc tu hành trong chùa, giúp hắn gọt xương lóc thịt, thay hình đổi dạng. Hắn quấn băng vải đầy đầu quét sân ở trong chùa quanh năm, mỗi lần khách hành hương trong chùa thấy hắn đều sẽ cho hắn ít tiền với vẻ thương hại, có lẽ bọn họ cho rằng Hạ Hầu Liễm bị hủy dung.
Ngày tháo băng, hắn soi gương đồng nhìn diện mạo mới của mình, không xuất sắc như ngày xưa, nhưng vẫn rất dễ nhìn, mắt và mũi đều không động đao tới, ánh mắt vẫn sâu thẳm, cánh mũi vẫn cao thẳng, hắn rất hài lòng. Nhưng vết sẹo phía trên đôi mắt không có cách nào xóa được, hắn dùng son phấn che lại, không nhìn kỹ sẽ không thấy.
Kẻ thù đều nhận không ra hắn, phiên tử Đông Xưởng đi lướt qua hắn cũng không hề ngoái đầu lại. Hắn đến Kim Lăng giúp Trì Yếm thanh toán hết nợ nần, sau đó du sơn ngoạn thủy khắp nơi, Trì Yếm nói đến dịch linh Phong Kiều, vãn chung Hàn Sơn, tiểu xướng Ngô Giang, hắn đều đi qua một lượt, nghe hết một lần. Bên cạnh đình Thương Lãng, hắn đốt di thư của Trì Yếm rồi rải tro tàn xuống dòng nước chảy róc rách. Từ nay về sau trăm cảnh núi sông, thiên địa vạn vật, Trì Yếm cũng sẽ không bỏ lỡ.
Vào một hôm rằm tháng bảy, hắn đào một cái mộ cho mình ở chùa Tê Hà, dùng chút bạc còn sót lại mua một chiếc quan tài mỏng. Hắn nằm xuống quan tài, khép nắp quan tài lại rồi im lặng chờ chết. Trong quan tài tối om, mới đầu hắn miên man suy nghĩ, sau đó bò ra ngoài đi nhà xí vài lần, có một lần dọa cho tiều phu ở sau núi hết hồn, hắn xin lỗi liên tục rồi quay về nằm tiếp, sau đó mơ màng ngủ luôn. Lúc tỉnh lại, trời đã sáng bừng, hắn không chết. Hắn dẫm lên lá phong đỏ rực khắp nơi trở về chùa Tê Hà.
Thu Sơn ngồi dưới mái hiên uống trà, nhìn thấy dáng vẻ mê mang không biết làm sao của hắn, nói: “Trời không giết ngươi, cố gắng sống tốt đi.”
“Nhưng ta là một tội nhân.”
“Giác ngộ trong một ý niệm, làm thiện trong một ý niệm, độ kiếp thành Phật cũng chỉ trong một ý niệm, huống chi là ngươi?”
Hạ Hầu Liễm cáo biệt Thu Sơn, bắt đầu phiêu bạt khắp nơi. Hắn không có chỗ ở cố định, đi đến đâu tính đến đó. Nhưng phiền phức là hắn không có hộ tịch cũng không có hộ thiếp, là một tên lưu dân. Quan phủ rất nghiêm ngặt trong việc bắt lưu dân, một khi bị bắt, một là bị ghi vào dân bộ rồi tống vào đại lao, hai là trục xuất biên quan đi trấn thủ biên cương. Hắn trốn chui trốn nhủi, còn phải tìm cách chế tác thủ công kiếm tiền nuôi sống bản thân, thực sự rất vất vả.
Thời điểm đến Đài Châu, gặp phải giặc Oa vây thành, quân doanh chiêu mộ binh mã, không hỏi quê quán. Hắn thật sự khốn cùng, đành theo lệnh triệu tập nhập ngũ, ở doanh trại một mùa thu. Nhưng trong một lần chiến đấu trên đường phố, một tên giặc Oa đánh bay Hoành Ba, sau khi làm thịt tên giặc Oa kia thì cũng không thấy Hoành Ba đâu nữa. Sau đó hắn nhìn thấy nó được bán đấu giá trên chợ, hắn không có tiền chuộc lại Hoành Ba, đành trơ mắt nhìn người của Đông Xưởng mang Hoành Ba đi.
Hắn đành phải vào kinh. Sống ngay dưới mũi của Đông Xưởng đúng là không phải chuyện dễ dàng gì. Kinh thành kiểm tra lưu dân vô cùng nghiêm khắc, cách vài ngày phải thanh tra các nơi lưu dân thường tụ tập như miếu nát, đất hoang, nghĩa trang này nọ. Đông Xưởng đề phòng nghiêm ngặt, giống y như thùng sắt, căn bản không thể ra tay. Tháng mười hai năm trước, hắn ở trong cánh rừng nơi ngoại ô lạnh run bần bật, bụng lại rỗng tuếch. Hắn không chết trong tay kẻ thù, không chết trong tu la tràng của Già Lam mà lại chết đói chết rét trong cánh rừng ngoại ô, lỡ mà xuống âm phủ chắc bị mẹ hắn cười chết quá.
Đúng lúc A Sồ đang đến am ni cô dâng hương về, nàng bèn nhặt hắn về ngõ son phấn. A Sồ nói với tú bà hắn là biểu đệ đến nhờ cậy nàng, giữ hắn lại Vân Tiên Lâu. Hắn có chỗ dừng chân, cuối cùng vấn đề chỗ ăn chỗ ở cũng được giải quyết. A Sồ là một cô gái xinh đẹp, lông mày đẹp như núi xa, đôi mắt chứa sương mù mênh mông, lúc nheo mắt nhìn người khác toát lên vẻ đẹp câu hồn như yêu tinh. Nhưng cằm nàng có hơi nhọn, môi lại mỏng, làm nàng trông hơi dữ một xíu. Mà một vài gã đàn ông lại thích phụ nữ hung dữ như vậy, lúc nhìn nàng uyển chuyển hầu hạ sẽ có khoái cảm chinh phục.
A Sồ là hoa khôi của Vân Tiên Lâu, muốn gió được gió muốn mưa được mưa, tú bà đều chiều theo nàng. Đàn ông muốn ngủ với nàng một đêm cần phải trả hai mươi ba mươi lượng bạc ròng. Có đôi khi A Sồ làm mình làm mẩy, trốn ở trong phòng không chịu tiếp khách, mặc cho tú bà gõ cửa đùng đùng. Nhưng A Sồ chính là A Sồ, là danh kỹ có một không hai trong kinh thành này, khắp đất bắc chỉ có nàng mới có thể cạnh tranh với sấu mã trời nam. Tú bà vẫn đến dỗ nàng, Hạ Hầu Liễm vội vàng đi xếp hàng mua điểm tâm xốp giòn ở cửa hàng và móng heo lớn của Chử Lâu cho nàng.
Những vị khách đó nào có biết A Sồ – yêu tinh trong mắt bọn họ – lại là một cô nương thích một tay cầm móng heo lớn gặm lấy gặm để, tay kia uống rượu với Hạ Hầu Liễm, có khi vui thì làm khùng làm điên, thỉnh thoảng thì đột nhiên trầm lặng, vuốt gương hỏi Hạ Hầu Liễm có phải mình già rồi không.
Cả đời này của Hạ Hầu Liễm không bao giờ hiểu nổi kiểu phụ nữ điên khùng như A Sồ. Ví dụ như vấn đề vừa rồi, Hạ Hầu Liễm nói nàng không già nàng lại không tin, nhưng nói nàng già thì nàng lại tức giận. Hạ Hầu Liễm đành phải giả vờ như không nghe thấy, tự uống rượu một mình. Ngày tháng ở Vân Tiên Lâu rất mãn nguyện, ngoại trừ giúp A Sồ mua móng heo, Hạ Hầu Liễm cũng không đi ra ngoài.
Nhưng hắn vẫn phải nghĩ cách tìm Hoành Ba về. Hắn đoán Hoành Ba ở chỗ của Thẩm Quyết, Thẩm Quyết là đốc chủ Đông Xưởng, đồ mà Đông Xưởng nhặt được nhất định sẽ giao cho Thẩm quyết.
Có đôi lúc hắn nhìn thấy xe ngựa của Thẩm Quyết chạy lộc cộc trên đường từ phía xa. Xe được trang trí tua rua, càng xe khắc hoa, cùng với bốn con ngựa lớn kéo xe, phía sau là hai đội phiên tử Đông Xưởng tháp tùng trông y hệt như trận chiến Sơn Hải[5]. Lúc chờ móng heo ở Chử Lâu cũng chạm mặt Thẩm Quyết hai lần. Lần nào hắn cũng phải quỳ mọp dưới đất cùng với những người khác chờ Thẩm Quyết đi qua, tà gấm duệ tát đính nhũ vàng rực rỡ và hoa lệ lướt qua trước mặt hắn. Thẩm Quyết đi qua, đầu hắn chấm mặt đất, hắn lén nghiêng mặt nhìn dáng vẻ cô độc lạnh lẽo của Thẩm Quyết, cùng với dáng hình dần dần đi xa rồi biến mất không còn nhìn thấy nữa.
[5] Trận chiến Sơn Hải: là một vở tuồng nổi tiếng thời tiền Tần (giai đoạn lịch sử của Trung Quốc trước khi nhà Tần thống nhất), kể về thời cổ đại. có hai phe phái là Chu Tước và Thanh Long đi tìm những cô gái bí ẩn và triệu hồi thần thú thượng cổ.
Hắn biết mình và Thẩm Quyết đã là hai người ở hai thế giới khác nhau, hắn là tên sai vặt trà trộn trong kỹ viện, hèn mọn như bụi đất, mà Thẩm Quyết lại là Đề đốc Đông Xưởng, một thái giám nắm quyền hành trong tay, chạm tay vào là bỏng. Hồi ức mười năm trước thật ảm đạm, chuyện cùng với Thẩm Quyết ở Tạ phủ và hoàng cung dường như đã trải qua từ đời trước, những ký ức xa xăm đó xuyên qua hồi hồn chuyển thế trở về trong đầu Hạ Hầu Liễm, khiến lòng hắn có một cảm giác không diễn tả được.
Vị Tạ thiếu gia với tính tình cáu kỉnh ngày nào giờ đã không còn nữa, hiện giờ ngồi trong xe tứ mã chạm khắc chính là Đốc chủ Đông Xưởng làm mưa làm gió với lòng dạ thâm sâu khó dò. Phiên tử Đông Xưởng đuổi bắt thích khách Già Lam ở khắp nơi, thích khách rơi vào tay Đông Xưởng không một ai sống sót. Lệnh truy nã Hạ Hầu Liễm treo ở đầu bảng, dán khắp thành hay phố lớn ngõ nhỏ, qua mấy năm cũ đi thì lại dán cái mới, năm nào cũng như năm nào. Giữa hắn và Thẩm Quyết bị ngăn cách bởi một vực thẳm, khiến hai người họ không thể đến gần nhau.
Hết cách rồi, không lấy được bản đồ nhà của Thẩm Quyết, lẻn vào hai lần đều bị lạc đường, mặt ủ mày ê đi ra. Chuyện Hoành Ba vẫn luôn kéo dài, hắn thật sự không có cách nào cả.
Sau khi ăn bánh nướng và màn thầu xong, hắn phủi tay, nhặt cánh hoa quân tử lan lên rồi vùi xuống đất bùn. Đột nhiên A Sồ lao ra khỏi phòng, quần áo xộc xệch, để lộ một mảng ngực trắng nõn.
Hạ Hầu Liễm: “…”
“Hạ Hầu!” A Sồ thấy hắn giống như thấy cứu tinh, nàng vừa thở hổn hển vừa chạy tới, “Ta… Ta, ta giết người rồi!”
Hạ Hầu Liễm có hơi ngờ ngợ: “Cô mà cũng giết người được hả?”
A Sồ có hơi xấu hổ, lắp bắp: “Chết ở trên giường…”
Tức là là tinh tẫn nhân vong.
Hạ Hầu Liễm: “…”
A Sồ kéo Hạ Hầu Liễm vào phòng, lấm la lấm lét nhìn dáo dác, xác định trong viện không có người khác mới đóng của lại rồi nói: “Ai biết cái tên chỉ được vẻ ngoài này lại vô dụng như vậy! Ta chỉ làm cho gã bắn hai lần, tối hôm qua còn rất tốt, sáng nay ta thấy gã không nhúc nhích nữa, còn cười gã liệt dương. Kết quả xốc chăn lên nhìn thì suýt nữa hồn vía lên lên mây rồi!”
Hạ Hầu Liễm kéo màn giường ra, bên trong là một gương mặt xám xịt, miệng mắt khép hờ, chảy máu đen. Hạ Hầu Liễm nhận ra gã, là một tiểu phiên tử ở Đông Xưởng, tên Yến Tiểu Bắc. Vốn là một kẻ nghèo hèn, không biết kiếm chác ở đâu được một vố, đem theo một xấp ngân phiếu đập lên bàn tú bà, nói bao A Sồ một đêm.
“Gã là can sự Đông Xưởng, chết ở trên giường ta, làm sao bây giờ?! Cái nơi Đông Xưởng kia đứng đi vào nằm đi ra, một cô gái yếu đuối như ta sao có thể chịu nổi đại hình trong nhà lao chứ?” A Sồ xoắn khăn, sốt ruột đến mức dậm chân.
“Đúng là cô chịu không nổi thật.” Hạ Hầu Liễm gật đầu đồng ý.
“Nếu không thì ta bỏ trốn? Ta có ít tiền tích cóp, chuyện ăn uống không thành vấn đề. Hạ Hầu, ngươi giúp ta đi, đưa ta ra khỏi thành!”
Hạ Hầu Liễm lắc đầu nói không được: “Tai mắt Đông Xưởng ở khắp thiên hạ, cửa hàng, khách điếm, xe ngựa, ở đâu mà không có người của Đông Xưởng? Trừ khi cô rời khỏi hẳn Đại Kỳ, bằng không đừng hòng sống yên ổn.”
“Vậy làm sao giờ?” A Sồ ấp úng nói.
Hạ Hầu Liễm suy nghĩ một lát, A Sồ nhìn hắn như ân nhân cứu mạng, không thể không cứu. Hắn thở dài, nói: “Cho ta mượn son phấn.”
Hạ Hầu Liễm còn định nói gì đó, một cô bé đứng ngoài cửa sổ nhỏ giọng gọi với vào: “A Sồ tỷ tỷ, Chu can sự tới tìm Yến can sự, đang chờ ở tiền viện, nhờ tỷ gọi Yến can sự dậy.”
A Sồ đứng phắt dậy.
Hạ Hầu Liễm dùng khẩu hình nói với nàng: Đồng ý với cô ấy đi.
“Được, tới ngay!” A Sồ hô qua cửa sổ.
Cô bé chạy lẹp xẹp đi mất, A Sồ xoắn tay, nói: “Là Chu Thuận Tử! Huynh đệ của Yến Tiểu Bắc, làm sao bây giờ?”
“Cô đi ra ngoài trước, ở đây giao cho ta.”
A Sồ gật đầu, đoạn hít sâu một hơi, sửa sang đầu tóc quần áo lại rồi ngẩng đầu đi ra ngoài.
Chu Thuận Tử là một cậu trai mỏ chuột tai khỉ, xương gò má rất cao, trên mặt không có thịt gì, nom dáng vẻ như một tên trộm gà. Kể ra thì phiên tử Đông Xưởng toàn là một đám côn đồ lưu manh mặc duệ tát, chuyện tốt không thấy mặt, cả ngày đi qua đi lại trong kinh thành dò la việc xấu của người khác. Bọn họ là khách quen của Vân Tiên Lâu, A Sồ rất quen thuộc. Ngày thường thân quen như thần tiên quyến lữ, hôm nay nhìn cậu ta lại phiền lòng. A Sồ ngồi chờ trên ghế bành, Chu Thuận Tử đi qua đi lại khiến nàng hoa cả mắt.
Nàng như ngồi trên đống lửa, bỗng một chàng trai bước ra từ cửa thùy hoa, dáng người cao gầy, gương mặt thon thả, dưới cằm có ít râu, đây không phải Yến Tiểu Bắc thì là ai? A Sồ trợn mắt há hốc mồm, nàng suýt nữa đã cho rằng xác chết của Yến Tiểu Bắc vùng dậy.
“Ui trời lão Yến, ngươi dậy rồi hả!” Chu Thuận Tử ôm lấy hắn, sau đó vẫy tay với A Sồ, “Sồ cô nương, bọn ta đi trước nhá!”
“Đi thong thả! Đi thong thả!” Nụ cười của A Sồ cứng ngắc.
Dịch dung hoá trang là sở trường của Hạ Hầu Liễm, được Thu sư phụ chân truyền. Thần thái của Hạ Hầu Liễm tự nhiên, hắn nhìn mắt A Sồ rồi theo Chu Thuận Tử ra cửa.
“Lão Yến, công công lại sai việc ta rồi!” Chu Thuận Tử thoạt nhìn rất kích động, “Ngươi xem, ta biết chúng ta có thể được công công coi trọng mà! Không chỉ để chúng ta đi ám sát tên khốn kiếp Thẩm Quyết vong ân phụ nghĩa kia, lần này còn phái hai ta đến Gia Định nữa!”
Ám sát Thẩm Quyết! Trái tim Hạ Hầu Liễm bỗng thót một cái, hắn đột ngột nhướng mắt lên.
Chu Thuận Tử cảm thán nói: “Không ngờ Thẩm Quyết kia cũng biết võ đấy! Ta cho rằng dáng vẻ yếu đuối mong manh ẻo lả của y thì ngay cả đao cũng nhấc không nổi! May mà chúng ta mạng lớn, thấy tình hình không ổn là chạy liền, bằng không cũng bỏ mạng ở đó rồi. Cũng may Ngụy công công săn sóc, không chỉ không truy cứu trách nhiệm mà còn cho chúng ta tiền thưởng, bây giờ còn phái chúng ta làm việc quan trọng! Tục ngữ nói nói rất hay, kẻ sĩ vì người trọng dụng mình mà chết, Ngụy công công trọng dụng chúng ta, chúng ta cũng nên thề sống nguyện chết trung thành!”
Hạ Hầu Liễm “Ừ” một tiếng, sau đó hỏi bóng hỏi gió: “Bây giờ Thẩm Quyết sao rồi, Ngụy công công còn muốn phái người đi giết y nữa không?”
“Không cần! Bệ hạ hạ chỉ để y đến Nam Kinh thủ lăng, đây không phải diễn xướng à. Thái giám thủ lăng thì cả đời này xác định là không trở mình nổi rồi!”
Còn hơn là mất mạng. Thẩm Quyết không sao, Hạ Hầu Liễm thở phào nhẹ nhõm.
Hắn cảm thấy hụt hẫng trong lòng, tên nhóc kia nằm gai nếm mật, khổ tâm tính kế lâu như vậy, kết quả lại rơi vào bước đường này. Thẩm Quyết không giống hắn, hắn đã quen lăn lộn trong bùn rồi. Một người kiêu ngạo như vậy, vất vả lắm mới bò được lên mây, song lại bị ngã xuống, không biết sẽ thế nào.
Ôi, đúng là trời xanh trêu ngươi mà.
Cũng được, Nam Kinh cũng không tồi, dù sao cũng là quê nhà của Thẩm Quyết. Uống trà, chơi mèo, chọc chim, một đời này coi như kết thúc tại đây.
Hạ Hầu Liễm hất cằm với Chu Thuận Tử, hỏi: “Ngươi tới tìm ta làm gì?”
“Này, bỏ qua vụ Thẩm Quyết đi!” Chu Thuận Tử lấy một phong thư từ trong ngực áo ra, nói với vẻ thần bí: “Lần này chúng ta có thể coi là khổ tận cam lai. Vạn tuế sắp lìa đời, còn dây dưa không triệu phiên vương vào kinh, chỉ e đã có ý truyền ngôi vị hoàng đế cho Nhị điện hạ. Ngụy công công phái chúng ta đến Gia Định âm thầm đón Phúc vương điện hạ hồi kinh. Đây chính là có công trợ vua, đợi điện hạ đăng cơ, chúng ta chính là nhất đẳng công thần!”
—+—
Tác giả có lời muốn nói:
Đại khái là chương sau sẽ gặp lại.