Hắc Công tay cầm một chiếc ly bằng ngọc lục bảo, bước lại gần nói với Bảo Sơn: “Vậy theo như những gì đã có trên bức vách thì đây không phải là mộ phần của riêng Đinh Công Kỷ mà là tộc mộ những người làm rạng danh dòng họ Đinh. Ba cái quan tài kia dù có quý giá cỡ nào, so với vật em có trong tay đây thì xem ra thành vật không chút giá trị ấy. Anh nhìn xem, đây chính là ngọc lục bảo xanh lam, nếu ra ngoài thị trường cái ly này không dưới 2 triệu USD, theo các chuyên gia nước ngoài ngọc lục bảo này không thể có ở nước ta. Nhưng có nhiều nhiều lời đồn đã khám phá ra có nhiều tỉnh ở Tây bắc đang có những mỏ lục bảo khá lớn chưa được khai thác. Giờ thì em có thể chứng minh cho họ thấy, việt nam ta chẳng những có ngọc lục bảo mà còn là loại màu xanh lục quý hiếm nhất trên thế giới... hahah”
An Nam đứng đó trầm ngâm nghe những lời của Hắc Công, đưa cánh tay lên phía trên cao rồi nói: “Đây là 3 ngôi mộ của những người đã làm nên kỳ tích dòng họ nhà Đinh, còn đứa bé con trên cao kia là ai... hai người nhìn đi nó còn sống đấy.”
Bảo Sơn và Hắc Công nhìn theo cánh tay An Nam thì thấy, từ khi bước vào hang sâu này, do mải mê nhìn ngắm những cổ vật, cả ba người không cảnh giác, sau lưng họ từ phía trên đỉnh hầm mộ đã có một ánh mắt dõi theo những hành động của ba người, xem ra không qua mắt được nó, thân thể đứa bé con ốm yếu theo lối ăn mặc có thể thấy là một bé gái độ khoảng 13-14 tuổi, mặc trang phục đỏ thẫm, tóc búi cao thành hình tháp, gương mặt và tay chân trắng bệch. Ánh mắt lạnh lùng trên cao nhìn xuống nhếch mép mỉm cười. Bảo Sơn ánh mắt hoảng sợ nói: “Thì ra chúng ta đang ở giữa lòng núi Bạch Tuyết... đây phải chăng là hồn ma Bạch Tuyết giữ mộ mà người đời thường hay nói sao? “
An Nam nói: “Chính nó đấy, xác nhi nữ này được luyện thành hành thi, hay trong phong thủy sư còn gọi là Bạch Thi, còn được gọi là quỷ dẫn hồn ...”
Vừa nói chưa dứt lời nữ ma quái kia cười lên thành tiếng, âm thanh nghe thôi cũng đã làm cho con người ta kinh sợ đến tận tâm can, cánh tay trái đưa ra, ngón tay trỏ đưa lên trước mặt chậm rãi chỉ vào hai người Bảo Sơn và Hắc Công, lập tức hai người như bị thôi miên, ánh mắt trợn ngược chỉ còn lòng trắng, hai gối quỳ xuống, cánh tay hằn lên những đường gân đen, miệng méo sang một bên gương mặt, máu trong khóe miệng hai người tuôn ra một màu đen kịt.
Đã bao đời nay, con người từ khi xuất hiện trên trái đất đã lập ra không biết bao nhiêu tư tưởng lạ lùng khác nhau. Khi ánh sáng văn minh chưa đến lúc phủ kín khắp mặt đất, con người ở mọi vùng miền, sắc tộc, chủng loại đã tự tạo ra cho mình vô số loại thần thánh, linh vật để tôn thờ, vô hình chung sáng tạo ra những ý tưởng tập tục quái lạ, vượt qua khỏi tầm hiểu biết của con người chúng ta. Trong đó có một tập tục gọi là hiến tế, mục đích là cầu xin thần linh cho mưa thuận gió hòa quốc thái dân an. Khi mọi việc không thuận lợi thì sát sinh hại vật, thuận lợi cũng trả ơn bằng cách sát sanh, để dâng lên thần linh. Nói cho cùng thuận cũng sát sanh, mà không thuận cũng sát sanh, họ tự cho mình có cái quyền thay mặt những đấng thần linh tối cao, mang dòng sinh tử đến cho nhân gian này.
Ngày hôm nay cũng thế ba người Bảo Sơn, Hắc Công và An Nam đang đối diện với sự thật ấy. Một hủ tục tàn ác là hiến tế trinh nữ giữ mộ. Trước mặt họ là hình dáng một bé gái hơn 13 tuổi thân hình co rúm, cái cổ dài hơn người bình thường, nước da trắng bạch như phết một lớp bột, trên trán có khắc một chữ Thượng, nụ cười cổ quái, ánh mắt xanh xám nếu như nhìn trực diện như có hàng ngàn mũi tên đâm thấu tâm can con người ta. An Nam có nói đây là Bạch Thi, vậy thế nào là Bạch Thi?
Đây cũng chính là lối luyện Hành thi truyền thừa từ Trung Hoa cổ đại. Khi xưa, khi có người thân trong nhà chết đi ở một nơi xa xôi nào đó, hồn lìa khỏi xác, trong vòng 49 ngày còn lưu luyến chốn hồng trần, đi lang bạt khắp nơi, sẽ được các pháp sư tại miền tây Hồ Nam triệu hồi thu phục.
Các pháp sư “dẫn hồn” này còn được gọi là Thầy dẫn xác. Họ đặt ra luật lệ “3 xác được dẫn và 3 xác không nên dẫn”. Thứ nhất những người đầu lìa khỏi xác, bị giết, chết bất đắc kỳ tử có thể được dẫn xác về, vì họ đều bị bức tử, chết còn hận đời, rất mong nhớ người thân và quê hương. Đối với ba loại người nói trên, pháp sư có thể dùng phép thuật phù chú để gọi hồn họ về nhập vào xác, dùng thần chú để khống chế, rồi phù phép để họ có thể đứng dậy, đi lại, leo dốc, chèo thuyền...
Thứ hai những người bị bệnh chết, nhảy xuống sông tự tử, tự thắt cổ, tự sát là chết tự nguyện nên không thể dẫn xác về nhà. Người bệnh mà chết vì tự tử, linh hồn bị Diêm Vương giam giữ trong Quỷ môn quan.
Người tự sát hoặc thắt cổ tự tử, linh hồn phải luân hồi từ kiếp nọ sang kiếp kia, để chết vào đúng giờ mà họ tự sát, nhiều lần. Người bị sét đánh hoặc bị thiêu cháy cơ thể không được toàn vẹn nên cũng không thể phù phép cho họ đứng dậy đi lại. Lúc đầu việc dẫn xác chết chỉ áp dụng đối với các chiến binh chết trên chiến trường, về sau phát triển dần, từ ước muốn ban đầu chỉ là dẫn xác thân con người về lại cố hương, gặp lại người thân. Sau khi lưu truyền khắp nơi được thêm thắt tính dị bản ám tà, trong đó có phép hiến tế thân xác thành người giữ mộ.
Ngoài phần cơ quan cạm bẫy giăng khắp nơi trong phần mộ, để thêm phần chắc chắn không bị trộm, người chủ mộ còn bố trí thêm Bạch Thi bảo vệ chốn an nghỉ của mình được trường tồn với thời gian.
Để có thực hiện phép trấn mộ bằng trinh nử, không phải cứ bắt một người đem về giết chết là thành oán hồn giữ mộ, mà trải qua rất nhiều cách thức hành hạ xác thân khác nhau để luyện thành một Hành thi. Luyện oán hồn giữ mộ đa số phải chọn bé gái, vì nữ giới thuộc âm mệnh, rồi phải chọn ra trong số những cô gái còn trinh nguyên có ngày tháng năm sinh cung Thủy thuộc hành âm, tức là âm cộng âm sẽ sinh thành Hung Âm.
Ban đầu bé gái được cho ăn sung mặc sướng, tắm rửa sạch sẽ bằng nước hoa thơm, sau đó đến ngày giờ đã định, cho ăn một bữa thật no, trong thức ăn có trộn thuốc mê. Đem đến bên huyệt mộ, đào một cái hố sâu hơn thân thể, kẹp cái cổ cô bé vào hai thanh tre to, sau đó dùng dao cắt đi gân chân, gác hai thanh tre treo cơ thể ngang qua miệng hố, cho máu trên người chảy xuống dưới hố cho đến khi hết máu mà chết đi, khi cái xác chết héo dưới nắng, được lôi lên, đổ thủy ngân vào bên trong cơ thể, pháp sư sau đó dùng phép triệu oán hồn về lập nghi thức trấn mộ, từ đó nó sẽ trở thành Hành Thi. Pháp sư cố ý làm vậy là muốn oán hồn sau khi chết đi, không đi được nơi khác, chỉ quanh quẩn bên phần mộ của chủ nhân.
Việc Hành thi bảo vệ phần mộ tại nước Việt Nam ta chưa bao giờ được nhắc đến trong sử sách. Vậy tại sao họ Đinh gia tại Mường Động lại thực hiện việc hành thi theo cách thức tàn ác của Phương Bắc. Đó là do lúc sinh thời dòng họ Đinh gia, đã cấu kết với những phần tử xấu bên Phương bắc, giúp bọn chúng thực hiện những phi vụ buôn bán phi pháp, dùng binh lực triều đình dưới danh nghĩa dẹp loạn vơ vét tài sản khắp nơi, đem về cùng nhau chia chác sản vật. Bọn người Phương bắc đã dùng những pháp sư hắc đạo có tà pháp làm mê muội lòng người. Nói là phụng sự cho gia tộc họ Đinh muôn đời được hưởng vinh hoa phú quý, nhưng sự thật không phải vậy, mà bọn chúng có một kế hoạch tàn nhẫn khác.
Ờ vùng Mường Động cứ cách 4 năm lại tổ chức một buổi tế lễ tạ ơn trời đất, đồng thời có một tập tục truyền thừa qua bao đời theo ý chỉ thần linh, tuyển chọn những vùng xung quanh ra một người đại diện cho tiếng nói của thần linh, được gọi là Thượng Lai, trước ngày mở lễ các Lang Đạo ( những người có chức sắc lớn tuổi) trong vùng sẽ nhận được ý chỉ tìm kiếm một vị Thượng Lai. Thượng Lai là một bé gái trên mười tuổi, phải có đủ tiêu chuẩn như sức khỏe tốt, làn da trắng sáng, tóc dài và mắt to đen, trán cao rộng... Ngoài ra, hình dáng bên ngoài của một Thượng Lai phải có những nét đặc trưng như gò má cao, dáng ngồi giống cây bồ đề, thân thể thơm tho, sạch sẽ. Bé gái được chọn làm Thượng Lai phải thể hiện sự mạnh mẽ của mình, bình tĩnh và có lá số tử vi tuyệt luân.
Khi trở thành Thượng Lai, các bé gái sẽ rời gia đình để đến sống trong khu đình thờ riêng, luôn mặc đồ màu đỏ, giữa trán được khắc một chữ Thượng, bàn chân nhuộm đỏ, mang những món trang sức của vị Thượng Lai lưu truyền từ đời trước.
Từ lúc này, Thượng Lai sẽ không còn dùng tên thật, sống khép kín trong đình thờ riêng, không có bất kì hoạt động giao tiếp nào với người lạ, chỉ khi nào cần ý chỉ của thần linh, các Lang Đạo sẽ cầu khấn xin ý chỉ của ngài mà thôi. Khi có kinh nguyệt lần đầu tiên, hoặc bị chảy máu vì bất kỳ lý do gì, Thượng Lai sẽ được trả về gia đình sống đời sống bình thường như bao người khác.
Thật lạ thay bé gái được tuyển lựa lần này luôn đưa ra những ý chỉ chính xác không sai lệch, tiên đoán mùa màng, mưa thuận gió hòa, bão lụt thiên tai. Nói gì đúng nấy, dân chúng rất tôn thờ xem như là phúc của muôn dân.
Dòng họ Đinh khi ấy vì nghe lời bọn pháp sư Phương Bắc chiêu dụ”Nếu như ngày nào còn vị Thượng Lai này, sớm muộn ý đồ của chúng ta sẽ bại lộ, tai tiếng đến Triều đình e rằng Đinh gia khó mà giữ được cơ đồ gia nghiệp bao đời... Vị Thượng Lai này có tố chất trời đất dung hòa, thiên mệnh hơn người, nếu như có vị Thượng Lai này làm vật giữ mộ của tổ tiên Đinh gia đây, thì cơ đồ bá nghiệp ngàn năm sẽ nằm trong tầm tay “
Bọn chúng cùng nhau lập kế hoạch hạ bệ vị Thượng Lai nhỏ tuổi kia, do đã có ý đồ từ trước, mua chuộc một vị Lang Đạo chức sắc trong vùng, trong lúc dâng lễ đã cố ý làm rơi một chiếc ly vào chân của Thượng Lai chảy máu, theo luật bé gái sẽ được trả về gia đình. Bọn chúng đã bắt bé gái đem về thực hiện nghi thức Hành thi. Với kế hoạch ban đầu biến cô bé thành người giữ phần mộ Đinh gia, nhưng thực ra bọn pháp sư phương bắc có dụng ý riêng, chúng dùng phong thủy sát cục Thiên Tinh Phá Gia, ý là sau khi Đinh gia chết đi, mặc nhiên kho báu bí mật này sẽ được bọn chúng quay lại mà lấy cho riêng mình.
Thế là sau khi Đinh Công Kỷ chết đi, gia sản dần mất hết, con cháu tha phương cầu thực khắp nơi, danh tiếng của dòng họ Đinh lẫy lừng chìm dần vào quên lãng.