Khi xưa Phát Khâu thường ngụy trang bằng hiệu cầm đồ lấy tên "Triều Phụng" để qua mắt thiên hạ, rất ít khi xuất thủ. Nhưng mỗi khi Phát Khâu xuất thủ, thường thường nhằm vào lăng mộ cỡ lớn, là môn phái duy nhất không cố kỵ, mà rất hợp tác với chính phủ. Thời Thanh bị kẻ xấu hãm hại mà lưu vong hải ngoại, thường hoạt động ở Đông Nam Á và Châu Mỹ, ở rất nhiều lần khai quật lăng mộ cỡ lớn cộng tác với chính phủ các nước. Ở trong nước bọn họ dùng thân phận khảo cổ học, giáo sư văn hóa dân gian trà trộn vào ban ngành chính phủ hoạt động.
Tôi nói vậy có đúng không giáo sư Huỳnh Bảo Sơn...”
Giáo sư Bảo Sơn mỉm cười không nói. An Nam nhìn ông rồi nói: “Thì ra tôi cũng nghi ngờ từ lâu thầy có một thân phận bí mật nào đó. Kỹ thuật và kiến thức chỉ trong giới trộm mộ mới biết vậy mà thầy nắm rõ như lòng bàn tay. Bà ta nói vậy, có đúng chăng?”
Giáo sư Sơn im lặng hồi lâu rồi đáp: “Đúng vậy... giờ đến nước này ta cũng không thể giấu. Phái Phát Khâu là do lúc ta qua bên Trung quốc du học, rồi lấy vợ, lão nhạc phụ là một truyền nhân phái Phát Khâu đời thứ 18. Ta cũng vì theo ông ấy nên cũng là một Phát Khâu Trung Lang bộ tướng. Nhưng cái giáo phái này rất nhẫn tâm, không phải như các người nghĩ. Ngoài mặt làm việc chính nghĩa còn có một bí mật. Đó là truyền thừa Ấn bảo, chính là Phát Khâu Thiên Ấn, nếu ai có nhiệm vụ giữ cái ấn này thì ngoại trừ người cấp cao trong giáo phái biết đến, phải đoạn tuyệt tất cả kể cả huyết thống. Nếu không sẽ cử người giết hết, thế cho nên ta vì sự lựa chọn duyên đạo của tổ sư Phát Khâu nên nhận trách nhiệm này. Đành rời xa gia đình, tránh gây hiểm họa sát thân cho họ...”
“Nói vậy cái bảo vật Phát Khâu Thiên Ấn, không những bị phá hủy mà giờ nằm trong tay thầy sao?
Mã Tôn cười lớn: “Làm gì có được nó hoàn chỉnh?. Ông ta chỉ có một phần Dương, còn lại phần Âm là trong tay của ngộ. Ngộ cũng là một Phát Khâu Trung lang tướng, mà chính xác hơn là ông nội của ngộ cũng là một người trong phái Phát Khâu. Khi xưa để giữ bí mật cho ấn vật khỏi bị tàn phá đã trốn sang việt nam, lần đầu tiên phá bỏ quy kết, trộm mộ Sở vương. Nhưng sức người giới hạn, chỉ có một nữa ấn bảo, lại hoạt động đơn lẻ nên phải chịu sự quả báo của luật định ban phái.”
Mã Tôn chưa nói dứt lời đã lấy ra một vật trong như thủy tinh hình lục giác màu xanh đen, trên đó tạc hình dáng như một con vật chỉ có nửa thân mình giống kỳ lân, cầm trên tay. Tất cả ánh sáng xung quanh như tụ hợp lại trong nó, làm cho mọi người ánh mắt như bị thôi miên. Gã nói tiếp: “Đây chính là Phát Khâu Thiên Ấn bảo vật trời đã ban tặng cho nhân loại hay nói đúng hơn là phái Phát Khâu ta. Chính tổ sư gia Phái Phát khâu đã phát hiện ra nó, có thể xua đuổi tà ma, là chiếc chìa khóa vạn năng khai mở những cơ quan khó nhất trong những cổ mộ. Thế nên các hoàng đế điều muốn hủy diệt nó là thế. Nhưng ông nội ngộ đã đem theo qua Việt nam hòng trốn tránh sự truy lùng gắt gao của những cơ quan mật vụ triều đình. Đồng thời kết hợp với tìm kiếm mộ của Bá vương nước Sở”
Giáo sư Sơn cũng lấy ra một nửa cái ấn còn lại, chất liệu cũng giống cái ấn kia nhưng màu nâu đỏ, tạc một chiếc đầu linh thú, đó là chiếc đầu Hỏa kỳ lân. Ông nói: “Chính xác là vậy, khi xưa vì muốn chiếc ấn rơi vào tay triều đình và tập trung vào một người nên nó được phân làm hai phần Âm và Dương. Phát Khâu cũng vì thế mà chia ra hai bộ phái. Hạ Lang và Thượng Lang, nắm giữ hai phần ấn bảo. Ta cũng có đi tìm hiểu và những chuyên gia giám định vật chất trên thế giới nói rõ nguồn gốc của nó không phải là từ cõi trời ban tặng theo truyền thuyết môn phái. Mà là theo những chuyên gia tôi quen biết nói rằng, loại thủy tinh giống đá mã não làm nên chiếc ấn này có nguồn gốc từ vụ va chạm giữa thiên thạch và bề mặt Trái Đất. Nhiệt độ phát sinh từ vụ va chạm thiên thạch hoặc vụ nổ trên không đủ làm chảy cát trên sa mạc, tạo ra các hạt thủy tinh. Sóng xung kích từ vụ nổ trên sẽ sinh ra lực Pascal, lực sóng xung kích có gia lực áp suất hàng tỷ Pascal mới đủ mạnh để tạo ra khoáng chất gọi là Reidite bao bọc lấy viên thiên thạch. Trong một nghiên cứu mới, các nhà khoa học thế giới phân tích khoáng chất Reidite được tìm thấy trong loại thủy tinh đặc biệt ở Ai Cập, dùng chế tạo đồ trang sức cho các vị vua Pharaoh. Vì thế gọi một câu chưa thật sự hoàn chỉnh, cái ấn này được tạo ra từ đá trời, hay còn được gọi là thiên thạch”...
An Nam nhìn Mã Tôn hỏi: “Vậy tại sao ông lại biết giáo sư Sơn đây có một cái Ấn bảo như vậy mà tìm kiếm chứ?”
Lão Mã Tôn chẳng thèm nhìn An Nam mà nhìn ánh mắt soi mói vào giáo sư Bảo Sơn rồi nói: “Ây dà... muốn kiếm đồng môn thì quá dễ dàng mà lị. Đầu tiên ta tìm ra cha vợ cũ của giáo sư đây. Sau đó biết được danh tính. Phái Phát khâu hành sự theo quy tắc, tìm ra tung tích cũng không hề khó khăn. Vì còn có một cách khác, đó là chiếc Ấn bảo này khi cả hai cái gần nhau trong một phạm vi nhất định, sẽ rung lắc và màu sắc sẽ thay đổi. Giống như đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu ấy mà... hjhj”...
Giáo sư Sơn nói: “Thôi giờ chúng ta điều biết cả nhau rồi, cùng chơi bài ngửa thôi. Giống như thỏa thuận từ ban đầu của chúng ta, chúng tôi chỉ cần cái mái chèo thuyền bát nhã. Còn lại thì mấy người muốn gì thì cứ tiếp tục. Chúng tôi xem như xong nhiệm vụ.”
Bà Minh sư Thanh Hải cười lớn nói: “Ông anh đã vào đến đây hà cớ gì phải nôn nóng vậy. Thức ăn mỹ vị chưa dọn ra đã vội quay lưng ra về sao. Tôi cũng đã nói xong việc cả đâu? Còn phải giúp một tay cho Mã chủ tịch đây đã chứ?”
Nói vừa xong đã thấy Maru lấy tay đẩy một cái mạnh vào cổ quan tài gỗ Mun đen giữa lòng thuyền ngọc. Chiếc quan tài bật nắp trong đó một thi hài nằm ngủ say, trên gương mặt già nua có vương nét hoàng tộc, mặc dù qua trải qua nhiều năm tháng vẫn vương nét hồng thuận, không có dấu hiệu hoại tử, gương mặt trắng bệch làm nổi lên thêm những đường gân xanh, trên người mặc một cẩm bào vàng trên có vô số những viên ngọc ngũ sắc to nhỏ rất đẹp, đầu đội một Long mão đính hơn sáu viên ngọc phỉ thúy xanh. Thế giới hiện nay chỉ còn loại Mun đỏ, do gỗ Mun đen là một loại gỗ đặc biệt quý giá hiện nay hầu như không còn ai trông thấy, xác chết đặt vào đây có thể tồn tại nghìn năm không phân hủy. Vậy mà nơi này lại tồn tại một cổ quan tài gỗ Mun đen, mà lại nguyên khối to lớn để làm quan tài này. Lão Maru nheo nheo con mắt, lấy cuốn sách cổ trong tay đọc: “Theo như những gì trong sách của gia tộc họ Mã thì đây chính là “Mộ thuyền” của Sở vương đấy...”
Chỉ thấy Ngư Nhi ngồi xuống bên quan tài nhìn chiếc nắp vừa bật ra đọc những chữ khắc cổ trên đó: “Đây lại là chữ Lạc Việt xưa. Thường thì những người thuộc hoàng tộc khi chết đi đều để lại những dòng chữ giống như bút tích để lại đời sau, kể lại quá trình sinh sống của người ấy khi còn tại thế. Đây đích thực là thân xác của vua nước Sở khi xưa vì chiến tranh thất bại trước nhà Tần, hòng trốn tránh sự truy sát đã chạy xuống phía Nam lánh nạn, thành lập một làng nhỏ tại vùng hoang vu này. Thật sự là trong lúc chiến loạn, họ có lấy một bảo vật của Tần vương mang theo, ở đây không thấy nhắc đến nhiều, chỉ nói là một cái bảo đỉnh gì ấy. Sau khi sinh sống tại vùng này, vô tình tìm được thế đất tốt, nên sau khi chết đã nhập thổ vi an tại đây...”
Lão Mã cười to: “Vậy thì chính xác rồi, gia tộc họ Mã của ngộ đã tìm đúng nơi rồi... hahaha. Khi xưa ông nội của ngộ không biết tìm ra đường vào, một thân một mình, nên chỉ lấy được cái mái chèo vàng của con thuyền này và một ít châu báu mang về, sợ phạm húy không dám phạm đến thi hài của thiên tử... Giờ thì còn gì nữa, theo như cậu trai trẻ này nói thì có một mật tịch khác, vậy thì phiền cậu nhanh tay mở ra rồi”.
An Nam nói: “Từ thuở khai thiên lập địa đã có núi sông, nhị khí Âm Dương vận hành ở giữa, đạo lý này không thể thay đổi. Chuyện này không khó, cái khó là phải biết phương vị ngũ hành của nó theo hướng nào, thường gọi là nghịch Âm Dương hay còn gọi là Thái Cực Động Tĩnh... Dòng sông vàng phía dưới cái cối ngọc này chảy ngược kim đồng hồ gọi là động, cối ngọc bên trên gọi là tĩnh, mũi thuyền hướng Bắc thuộc cung Khảm giờ thuận là Nhâm, Quý, Tý giờ thì ta chỉ dịch chuyển theo hướng ngược lại hướng Nam thuộc cung Ly giờ thuận là Bính, Ngọ, Đinh là được...”
“Thật là tuổi trẻ tài cao... Ngộ thành thật cảm ơn lỵ.Vậy mọi người xuống bên dưới, để cậu trai trẻ làm việc này một mình là được rồi...” Mã tôn gấp gáp nói.
An Nam nhanh chóng lấy mái chèo vàng cắm xuống mũi thuyền, cả con thuyền bằng đá Quỷ Kiếm Sầu với quan tài gỗ Mun đen nằm bên trong cực nặng, nhưng chỉ bằng một cánh tay ngay mũi con thuyền vận sức, dùng một lực cực mạnh xoay chuyển mũi thuyền theo hướng ngược lại, con thuyền theo ý xoay nhẹ nhàng, một cơn rung lắc mạnh trong lòng hang, phía trước cứ tưởng là vách đá bịt kín có hai thạch nhũ cao lớn, thì ra sau khi An Nam xoay con thuyền, đã tách ra làm hai, lộ ra là hai trụ đá do lâu ngày bị phong hóa, thạch nhũ bên trên rơi rụng xuống. Xuất hiện bên trong là một khe đá to lớn, có rất nhiều ánh sáng lập lòe như ma trơi nhảy múa bên trong.
Tất cả mọi người đứng trước sự việc trên ánh mắt không khỏi ngỡ ngàng. Khi bước vào trong thấy một hiệp cốc âm động, rất to lớn như một sân bóng đá, đích thực cái hang này là nằm giữa trung tâm ngọn núi, phía bên dưới là một lòng chảo sâu xuống hơn hai mươi mét, một vật to lớn hình tròn như cái đỉnh hương phát ra thứ màu sắc quỷ dị, tứ phía xung quanh nó có những rễ cây to bằng bắp chân người lớn xoắn như những chiếc bính tóc từ thành vách đá bám vào thân. Một thân cây đại thụ khổng lồ, thân to lớn mọc từ bên trên trần hang xuống dưới này, rễ cây bọc lấy cái đỉnh. Bên vách là những bức tượng kích thước bằng con người tạc bằng đá phiến, trong trạng thái uy nghiêm, tất thảy những pho tượng kia đều rất giống người thật, mặt hơi dài, mắt mở to tự nhiên, tóc búi cao, đầu đội mũ thiên quan có những hoa văn nổi, khối áo mặc nhiều lớp, có cánh tay thụng, các tượng thể hiện ánh mắt nhàn tản vô ưu. Bệ tượng hình vuông chia ba lớp, lớp giữa thót lại, trên mặt đứng của thành bệ được chạm nổi những tảng mây cụm, lá sồi và những lá bồ đề. Phía chính diện có ba pho tượng to lớn chính giữa là Quán Thế Âm tọa sơn, được chạm khắc với nhiều nét điển hình áo suông dài, ngồi tọa thiền. Hai bên bên trái và phải còn có hai tượng Lão Đam và Ngũ Nhạc, những tượng này mang hình thức võ tướng, đầu đội mũ đạo quan, chân đi hài được thể hiện liền bệ, chạm nổi hoa văn xoắn ốc tinh tế.
Kỳ lạ hơn hết là trên cái đỉnh tròn to lớn kia có một một trụ đồng đỏ khoảng hai vòng tay người lớn, bị rễ cây đại thụ bọc lấy, trên thân trụ những vòng ánh sáng đỏ cuồng nộ ôm lấy thân trụ đồng di chuyển lên xuống, từ trên đỉnh hang cắm thẳng vào, kích thước cùng với độ dài không biết nó xuất kết từ đâu, chỉ thấy độ nóng mà nó phát ra làm cho mọi người cảm thấy tức ngực khó thở, hung quang soi sáng bên trong lòng hang tạo thành ánh sáng như ban ngày. Men theo những bậc đá lát vỡ vụn, những rễ cây chi chít chằng chịt, tất cả cùng bước xuống bên dưới.
“Càn Khôn Đỉnh sao?” An Nam vừa bước đi ánh mắt không rời cái vật kỳ lạ kia, thất kinh, khẽ nói trong vô thức.
Vậy Càn Khôn Đỉnh là vật gì khiến An Nam thất kinh đến vậy? Tương truyền đây chính là một trong năm pháp bảo thời kỳ Hồng Hoang đã xuất hiện trên thế gian như Hỗn Thần Trụ, Khai Thiên Phù, Đông Hoàng Chuông, Thiên Trảm Phi Đao và Càn Khôn Đỉnh là pháp bảo có thể tiêu trừ yêu nghiệt, luyện Tiên đơn của Thái Thượng Lão Quân. Riêng Đỉnh từ thời xa xưa được xem là Thần Khí thường dùng để tế lễ, là vật làm phương diện giao tiếp giữa Người và Quỷ thần. Nhưng đó chỉ là truyền thuyết hà cớ gì lại nằm tại sơn mộ này, đó là điều làm An Nam không tin vào mắt mình, lại còn trụ đồng kia trấn từ bên trên xuống, bước lại gần mới thấy được trên đó khắc sáu chữ “Đồng trụ triết- Giao chỉ diệt” (Trụ đồng gãy thì Giao Chỉ bị diệt vong).
Từ khi bước vào nơi này khí lực mọi người tụt giảm nhanh chóng, không khí như bóp nghẹn nơi cổ họng, làm ai nấy đều đầu váng mắt hoa, duy chỉ có đám người bà Minh Sư Tâm Hải và Mã Tôn là thấy ko một chút suy giảm. Chợt bà Tâm Hải cười to, ánh mắt một màu ác độc cực độ nhìn lão đệ tử Maru lúc này đang đứng kề bên Ngư Nhi, ra dấu. Lập tức hắn ta dùng tay đánh lén sau gáy Ngư Nhi làm cho nàng ngất đi.