Vậy rốt cuộc cái thứ Thánh Thai này là gì? Ước mơ thành Tiên thánh trên cõi trần gian xưa nay bởi người trần mắt thịt chưa bao giờ lụi tàn, mà nó chỉ âm thầm chuyển từ tình trạng này sang hình thức khác. Con người luôn tìm kiếm thuật trường sinh và trên hết là “Đằng vân hóa vũ” một bước thành Tiên, đi mây về gió. Thuật tu Tiên có rất nhiều cách nhưng chung quy lại chỉ có năm cách thức.
Thứ nhất là Luyện Đơn;
Thứ hai là Thiên tài địa bảo, phải có tư chất thiên tài tu học huyền thuật tìm ra thế đất tốt có đủ Ngũ hành âm dương, Càn khôn vũ trụ hội tụ, thế đất này chỉ có cầu chứ không thể gặp, để tu luyện.
Thứ ba là Tu chân, tu luyện trải qua hằng hà sa số luân kiếp, phải chịu Lôi kiếp hai trăm năm, chịu thêm Hỏa kiếp hai trăm năm, tiếp đến là Phong kiếm thêm hai trăm năm, để gọi là Tam kiếp mới thành tụ.
Thứ tư là Vũ hóa thành tiên có nghĩa là những người có căn cơ tu Tiên từ lâu, sau đó biến thành chim Phượng hoàng hoặc Thiên hạc đắc đạo thành Tiên.
Nhưng cái cuối cùng thì xem ra an nhàn và dễ dàng hơn tất cả đó là Xuất tiên, là những người thuộc huyết thống của các vị Tiên gia trước đó, chỉ cần thừa hưởng lại Thánh thai là có thể một bước thành Tiên.
Mã Tôn là thừa hưởng cái cuối cùng này từ người cố tổ xa xưa có tên Phục Ba Mã Viện.
Ngày hôm nay, ba thầy trò Bảo Sơn tận mắt thấy những sự việc lạ trước mắt không thể không tin đây là sự thật, viên “Vạn Cổ Đan Tinh Vương” thật là quái lạ nằm trong tay Mã Tôn màu sắc từ vàng chuyển dần sang màu đen u tối, rồi bộc phát thành một vòng tròn bao bọc lấy thân mình hắn ta, trong Càn Khôn Đỉnh vô số cánh tay đỏ như máu túm lấy hắn lôi vào bên trong, những cánh tay yếu ớt chỉ bằng bàn tay của đứa trẻ con mà lại có sức mạnh ghê gớm, một dòng hư khí bao bọc lấy Càn Khôn Đỉnh. Trong hang động giờ không gian im lặng một cách đáng sợ hơn bao giờ hết, nghe rõ cả hơi thở của mình. Thật không ai có thể hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra, tất cả bỗng dưng như bị thôi miên, thân thể hóa đá, không gian bị cô đặc, đông cứng. Duy chỉ có An Nam còn tỉnh thức, dùng sức cởi trói cho bản thân, sau đó chạy tới kéo Bảo Sơn và Ngư Nhi ra xa khỏi cái đỉnh tà quái kia. Dùng hai đạo quang trong tay điểm thẳng vào thái dương hai người, chỉ giây lát hai người kia bừng tỉnh. Cả hai không hiểu chuyện gì xảy ra. “Là chuyện gì xảy ra vậy... tại sao tất cả đều bị đứng im như trời trồng vậy ..?” Ngư Nhi nói yếu ớt.
An Nam nói trong vội vã: “Hai người lùi ra xa, tôi nghĩ sẽ có chuyện không hay xảy ra rồi... Đây là thế trận “Ma Thụ” nó làm cho tất cả u mê, trút hết linh hồn, chuẩn bị có đại kiếp xảy ra rồi...”
Một màu đen vây bủa lấy, không nhìn thấy bàn tay. Mặt đất quay cuồng, những âm thanh nghe như những tiếng khóc của hàng vạn sinh linh nhỏ bé, những cơn gió lạnh buốt từ khắp nơi tràn vào, đặc sệt một màu tử khí.
Chẳng biết chuyện đó đã xảy ra trong bao lâu...
Phục Ba Mã Viện vốn xuất thân từ giới Huyền Thuật của phương Bắc khi xưa, trước khi trở thành đại tướng của vương triều Đông Hán đã từng tu luyện trên núi Côn Luân. Sau khi phục vụ triều đình, biết bày binh bố trận, sử dụng huyền thuật, xem phong thủy, nhiều lần lập công lớn trở thành danh tướng.
Tương truyền có nói rằng. Theo đó, ngày 30 tháng 1 năm Tân Sửu (tức năm 41), nhà Hán thấy Hai Bà Trưng xưng vương dấy quân đánh lấy các thành ấp, các quận biên thùy, nên hạ lệnh cho các quận Trường Sa, Hợp Phố và Giao Châu sắp sẵn xe thuyền, sửa sang cầu đường, thông các khe núi, chứa thóc, quân lương. Đồng thời, Vua Hán cũng giao cho Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Phù Lạc hầu Lưu Long làm phó tướng sang xâm lược. Cánh quân bộ tiến vào vùng Đông Bắc, Mã Viện tiến theo đường ven biển, san núi làm đường hơn nghìn dặm, đến Lãng Bạc. Năm Quý Mão (tức năm 43), cả hai đạo quân đại chiến tại Lãng Bạc.
Tại nơi này, khí thế của quân lính Hai Bà Trưng tuy không được đào tạo bài bản lại đa phần là Nữ tướng, sức mạnh vô song, uy lực không kém cạnh quân lính chính quy của quân lính nhà Đông Hán. Khi giáp trận Mã Viện và Lưu Long, không thể ngờ rằng một đám Nữ tướng tay yếu chân mềm trong con mắt của họ lại trở nên kiên cường, chỉ có thể nói một câu “Nể phục vạn phần” không những võ công tuyệt đỉnh, sử dụng Tượng Pháp (pháp trận voi chiến) không một kẻ hở phải gọi là “Bách trận khó xâm” xem ra lời đồn về sức mạnh quân “Trưng nữ vương” không phải vô căn cứ. Sau nhiều lần công chiến “lấy thịt đè người” trong vô vọng. Quân lương cạn kiệt, quân lính mệt mỏi, nếu kéo dài e rằng tất cả phải bỏ mạng tại vùng đất Giao Chỉ này.
Trong lúc đánh không được, lùi cũng chẳng xong. Thì phó tướng Lưu Long đưa ra một kế sách cho Mã Viện: “Đại tướng quân, mạt tướng xin đưa ra một ngu kế, xin tướng quân xem chúng ta có nên sử dụng nó trong trận chiến này được không?”
Chẳng thèm nhìn gương mặt vị phó tướng, Mã Viện chăm chú nhìn vào tấm bản đồ Giao Chỉ trên vách nói: “Nhà ngươi cứ nói...”
“Dạ... là kế “Nam nhân khỏa nhục hiến chi giảo” ( Nam nhân khỏa thân). Hạ tướng nhận thấy đa phần bên quân “Trưng nữ vương” là nữ, họ lại có tư tưởng “nam nữ thọ thọ bất tương thân”, chắc chắn sẽ hổ thẹn khi nhìn thấy nhục thể của người đàn ông, do đó sẽ mất đi nhuệ khí chiến đấu. Ta nhân cơ hội đó, lật đổ thế trận, giành chiến thắng...”
Mã Viện lấy tay đấm xuống mặt bàn, ánh mắt gầm lên nỗi thất vọng: “Hmm... Hàm hồ... Ta đây Mã Tộc Phục Ba uy danh đỉnh đỉnh, trăm trận trăm thắng hà cớ gì dùng đến cái kế nhục nhã này, không thể dùng nhục kế như vậy trong trận đánh này, mai sau thiên hạ biết sự tình, ngươi nghĩ xem danh tiếng dòng họ Phục Ba ta đem để ở đâu ..?”
Phó tướng Lưu Long biết trót lỡ lời nên quỳ xuống, cúi đầu không dám ngẩng mặt...
Mã Viện nói: “Thôi đứng lên đi, ta biết tướng quân cũng vì muốn nhanh chóng dành chiến thắng nên đưa ra hạ sách như vậy. Chả qua là mấy ngày nay, ta có xem phong thủy tại vùng Lãng Bạc này là “Hữu tất phục, Tả tất giáng, tinh thần bách bội, khí vạn thiên” Biết rằng hai người chủ tướng bên ấy là Nữ thần tướng của phương Nam, nên uy lực không phải không có, lại còn có linh thần phía sau bảo vệ. Ngươi yên tâm không bao lâu nữa ta sẽ dành chiến thắng... Chẳng những thế ta sẽ cho Nữ nhi đất việt muôn đời không ngóc đầu dậy nổi, trả giá khi không quy phục dưới chân ta...”
Suốt mấy ngày sau đó, quân đội của nhà Đông Hán dưới sự chỉ đạo bí mật của Mã Viện xây dựng nhanh chóng một cái tòa thành nhỏ bằng đất sét trắng hình chiếc kén tằm đặt tên là “Kiến Thành”, hậu quân tiếp sau đó đã đem từ phương Bắc qua thêm một vật kì lạ thân to lớn được bọc trong một tấm vải đỏ, ngày ngày lấy máu “Lục súc” làm nghi thức tà môn.
Đến ngày nghinh chiến, hắn kéo vật ấy ra giữa chiến trường tuyên bố dõng dạc: “Này hai ả kia. Nay ta thay mặt Thiên triều, thu phục các ngươi, đây là lần cuối cùng ta dành cho các người con đường sống. Nếu còn chống lại ý chỉ của Thiên tử, e rằng tính mạng không toàn mà linh hồn cũng sẽ không siêu thoát...”
Hắn chỉ nghe thấy một tiếng cười nhỏ nhẹ, sau đó một tiếng nói dõng dạc cất lên vang xa nghìn dặm:
“Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin vỏn vẹn sở công lênh này...
Giao Chỉ đất ít người thưa, mang phận yếu nhân, vậy mà bao năm quá các người vì lòng tham không đáy mà liên tiếp xâm lấn bờ cõi. Chẳng thuận ý trời, nhận bao nhiêu thất bại đắng cay mà vẫn cố chấp. Chúng tôi đều vì sự yên bình của con cháu Đại Việt cớ gì phải im lặng cho các người tự tung tự tác, hai ta mang phận yếu nhưng không mềm, chỉ cần ta hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng lục thập ngũ (65) thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay. Tiếc rằng từ xưa đến nay, trong khoảng hơn nghìn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay, làm tôi tớ cho người phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà này hay sao?... Nay Mã Viện nhà ngươi năm lần bảy lượt ta tha cho tội chết, giờ thì hối cũng không kịp... SÁT!!!!”
Đàn voi chiến cùng những nữ tướng ào ạt xông lên chiến tuyến, tiếng tù và cùng chiêng trống vang động cả một góc trời...
Mã Viện đứng trên một, đài cao quan sát, trong tay ném lên trên không một phù lục, niệm một câu chú: “Quyết Dĩ Ngôn Truyền, Diệu Triệu Lưỡng Nghi Trụ, Âm Dương Phù... Triệu hồi Đạo Ma... Cấp Cấp tuân Lệnh”
Bầu trời hình thành những đám mây đỏ tía, những hạt “Sa hỏa” nhỏ như mưa rơi xuống bên đội quân “Trưng nữ vương” tiếng hò reo bỗng dưng im bật, chỉ còn lại tiếng la hét thất thanh, tất cả quân “Trưng nữ vương” như chôn chân tại chỗ, từ dưới đất xuất hiện một cây trụ đồng to lớn rất tà quái trên đó khắc sáu chử “Đồng Trụ Chiết – Giao Chỉ Diệt” đầy lửa địa ngục, chỉ thấy ánh sáng chói lóa. Hai Bà Trưng phát hiện thì đã quá muộn, rơi vào trận đồ của Mã Viện văng ra. Chỉ trong giây lát binh tướng như mất hết sinh khí, cơ thể bốc cháy, lớp chết vì trúng tà khí, lớp ngã quỵ xuống bởi những lưỡi đao hung tàn của giặc phương Bắc. Hai bà bị truy sát đến bước đường cùng vì không muốn chịu khuất phục, Hai Bà Trưng đã gieo mình xuống dòng sông Hát Giang tự sát.
Một kết thúc đau buồn cho một cột mốc lịch sử, rốt cuộc phép phong thủy này mang tên “Đốn Trượng Pháp Trụ” trong đó cột đồng này chính là một phần của trận đồ phong thủy được lập để diệt tận mọi mầm mống phản kháng ở nước ta. Cụ thể, Mã Viện đã sử dụng một loại bùa chú truyền thuyết “Lưỡng Nghi” tức là bùa “Âm Dương” có hiệu lực cao hơn bùa “Bát Quái Tinh Đồ Long” của Cao Biền hai bậc theo Kinh Dịch.
Yếu tố Dương trong bùa yểm này là chiếc cột đồng, còn yếu tố Âm là Kiến Thành tòa thành hình cái kén được Mã Viện cho xây dựng. Hình dáng Kiến Thành kết hợp với cột đồng Mã Viện tạo nên một đạo bùa mạnh, cốt ý nhằm trấn yểm không cho người đàn bà Giao Chỉ tiếp nối truyền thống anh hùng dân tộc.
Kể theo kiểu dung tục thì Mã Viện đã chơi một trò rất thô bỉ là “đóng cọc” người đàn bà Giao Chỉ nhằm triệt tiêu con đường kết phát vương quyền cho nữ giới Đại Việt sau này. Ngoài ra, câu “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” về bản chất là một câu thần phù hay một lời nguyền.
Chữ “Chiết” ở đây không có nghĩa là gãy mà có nghĩa là tách làm hai. Do đó, câu này nên giải thích là “Trụ đồng tách Huyệt đế Vương ra làm hai, vua nữ Giao Chỉ bị giết”, chứ không thể dịch là “Trụ đồng bị gãy, dân Giao Chỉ bị giết”. Vì chữ “Huyệt” và chữ “Vương” là hai chữ đã bị ẩn trong câu này, như những gì người dân tương truyền.