Qua lại vài câu, thấy tiết trời về đêm càng lạnh giá. Cả ba người cùng vào trong lán trại chợp mắt lấy sức, đặng ngày mai chuẩn bị một chuyến đi xem ra rất khó khăn và gian nan. Chỉ có Ngư Nhi là trằn trọc mãi không sao ngủ được, mặc dù cô luôn có thú vui phiêu du khám phá đây đó nhưng đây là lần đầu tiên cô phải đi vào nơi thâm sơn heo hút này. Quay lại khoảng thời gian trước đây, Ngư Nhi không thể nào quên được những gì mình trải qua thời thơ ấu, ước mơ về một gia đình yên ấm hạnh phúc rất bình thường của một con người mà, không bao giờ cô có được, một thiệt thòi rất lớn là người mẹ sinh ra mình, dứt áo ra đi không một lời từ biệt. Người Cha thì sau cú sốc đó dần thay đổi tính nết khác thường, thành ra bản thân phải tự mình gồng gánh chống chọi lại mọi thứ áp lực vô hình xung quanh, vô tình tạo nên tính cách cứng rắn như một đứa con trai.
Vào năm lên bảy tự dưng sức khỏe Ngư Nhi bắt đầu yếu dần đi, cơ thể sốt cao liên tục, cánh tay trái từ bình thường trở nên đỏ ửng như có những cơn thiêu đốt, dù trong cảnh nghèo khó nhưng Hắc Công cũng cố gắng đem đứa con gái duy nhất của mình chạy chữa khắp nơi, nơi nào cũng không tìm ra nguyên nhân của căn bệnh lạ. Lúc ấy do hoàn cảnh khó khăn, nửa đêm thấy con gái bị sốt cao, co giật liên tục, miệng sùi bọt mép, Hắc Công ôm con mà tinh thần hoảng loạn, trong lúc ấy đường đi đến bệnh viện gần nhất cũng rất xa, thoáng thấy một ngôi chùa còn mở cửa Hắc Công mới vào mong tìm sự trợ giúp, thật may mắn ông trời không tuyệt đường cùng, nơi này có một vị sư già trước kia là một người thầy thuốc nên cũng chẳng mấy chốc đã giúp đỡ cho Ngư Nhi vượt qua cơn hiểm nghèo.
Sau sự việc Hắc Công quỳ xuống cảm tạ ơn sư. Lão sư già nhìn Ngư Nhi rồi quay sang nói: “Thật ra ta chỉ giúp được lần này cho con bé. Còn số phận con bé này, xem ra nếu ta không đoán nhầm không sống qua được năm chín tuổi...”
Nghe nói vậy Hắc Công hoảng kinh hồn vía, dập đầu vái lạy như tế sao nước mắt ràn giụa: “Dạ... con chỉ có mình nó là đứa con gái duy nhất, nếu không có nó con có lẽ cũng không có lý do tồn tại trên đời này. Nếu có cách nào cứu con gái của con, mong lão sư đại xá lòng từ bi mà giúp cho nó... Mai này con không bao giờ quên công ơn của ngài...”
Lão sư đứng dậy đến trước bàn thờ Phật chắp tay niệm kinh, rồi phút chốc quay sang nói với Hắc Công: “Ta thật sự cũng không biết phải nói sao cho anh hiểu. Con bé cơ bản thân thể rất yếu đuối, lại gặp bản mệnh “Địa sát” bên trong con bé này quá lớn, nếu không có cách trấn lại bản mệnh này lại, e rằng nó không thể sống nổi... Vậy đi, ta có một sư muội rất tài giỏi là Ni sư tu hành trên núi Bửu Long, rất thạo về việc này. Ta sẽ nói giúp cho cha con anh, đem con bé lên đó hy vọng có thể giúp cho nó...”
Như một duyên số Ngư Nhi được Ni sư Diệu Hạnh sau khi biết qua sự tình, được thu nhận làm đệ tử, dùng những chữ Lạc Việt Cổ Thuật xăm trên cơ thể trấn giữ bản mệnh, cánh tay dần ổn hơn không còn hành hạ cô nữa, như nó càng ngày càng đỏ thẫm như máu, ở chùa vài năm sau xuống núi. Qua Mỹ du học ngành cổ ngữ thành tài, quay về phụ giúp Hắc Công quản lý tiệm buôn bán cổ vật.
Đối với chuyện phiêu lưu lần này Ngư Nhi có cảm giác vừa thích thú xen lẫn nỗi hồi hộp không sao giải thích. Chợt thấy ánh sáng hắt ra từ đống lửa trước trại vào trong lều, hình như có một bóng hình to lớn đứng che khuất. Ngư Nhi bước xuống chiếc võng dù, vén nhẹ cái tấm vải trước cửa liều nhìn sang phía đống lửa, thấy một bóng dáng to lớn rất quen thuộc, rồi chẳng phải suy nghĩ lâu, nhờ ánh sáng từ đống lửa soi rõ hình dáng to lớn kia đó chính là Mã Tôn gã đang lẩm bẩm điều gì đó. Dưới chân hắn là một người phụ nữ, nhìn qua trang phục trên người phụ nữ này hẳn thuộc thời kỳ Bắc thuộc, bị hắn lấy chân giẫm lên người, miệng người phụ nữ ấy máu tươi tuôn lênh láng, ngước ánh mắt nhìn Ngư Nhi như cầu cứu. Tay chân gã Mã Tôn bắt đầu mọc ra vô số lông màu nâu đỏ, cái cổ vươn dài, trên cái đầu mọc ra một chiếc sừng cong vút. Ngư Nhi chưa kịp hoàn hồn thì con quỷ kia quay cái đầu ngược ra sau lưng cười lên khằng khặc. Rồi phóng đến trước mặt mình, chân tay Ngư Nhi như bị chôn cứng, thân thể như co rút lại không tài nào phản ứng, nó đưa bàn tay đầy lông chộp lấy cái cổ Ngư Nhi nói lên từng tiếng: “Nhà ngươi chính là “Địa sát” trong truyền thuyết đây sao? Máu của ngươi sẽ tốt lắm đây, hãy đi chết đi... hahaha”
Ngư Nhi cảm thấy cổ họng mình như nghẹt lại vỡ nát ra, hét lên thất thanh “Cứu... cứu tôi... cứu tôi!!...”
“Ngư Nhi... Ngư Nhi. Tỉnh lại mau, cô nương sao vậy? ...”
An Nam nói lớn: “Tôi và giáo sư bên lán trại bên kia nghe tiếng la hét của cô, tôi nghĩ cô gặp chuyện không hay nên tôi chạy sang đây. Ngư cô nương gặp ác mộng à?”
Ngư Nhi choàng tỉnh giấc, thì ra là một ác mộng kinh sợ, chứ nào phải sự thật, ngồi trước mặt là An Nam. Trán cô đầy mồ hôi tuôn ra như tắm, cánh tay đỏ run lên bần bật, gương mặt còn vương nét hoảng loạn nói: “Chính là cơn ác mộng này, tôi đã gặp thường xuyên lúc bé, từ lúc sư phụ xăm những dòng chữ việt cổ này lên người thì nó không còn xuất hiện nữa. Cho đến hôm nay đã linh ứng với những gì sư phụ tôi nói sao?...”
An Nam tỏ vẻ không hiểu nên hỏi: “Cô nương có thể kể hết sự tình cho tôi nghe được không, là đã xảy ra chuyện gì?”
Ngư Nhi nói: “Từ lúc tôi còn nhỏ đã trong giấc ngủ tôi thường gặp cơn ác mộng này, một con quỷ ghê sợ muốn giết chết tôi. Trải qua căn bệnh thập tử nhất sinh tôi được sư phụ Diệu Hạnh trên núi Bửu Long nhận làm đồ đệ, trì chú tụng niệm, xăm trên người tôi những LạcViệt Cổ Thuật hóa giải bản mệnh cho tôi. Tôi còn nhớ sư phụ tôi hay căn dặn “Bản mệnh con là “Địa sát” nhiều kiếp về trước con là một nữ tướng truyền thuyết của Đại Việt. Con ác linh này chính là người đã giết chết con khi xưa, là tạo nghiệp ngàn năm của con và nó, ta không thể hóa giải hoàn toàn mà chính tay con phải hóa giải nó, nếu như không thể mạnh hơn nó con chắc chắn bị nó khống chế, mang lại tai họa cho nhân gian...” Chính vì thế nhiều năm qua tôi đã chuyên tâm nghiên cứu học hỏi về cổ ngữ mong tìm ra cho mình con đường giải thoát... Thế như tất cả tưởng đã êm đềm, ngày hôm nay không biết sao nó lại quay trở lại...”
An Nam nghe xong, lấy khăn tay lau những vệt mồ hôi tuôn rơi trên trán, rồi an ủi Ngư Nhi: “Không sao, trước đây cô nương chỉ có một mình. Giờ chúng ta có ba người, ngoài tôi ra còn có giáo sư Bảo Sơn chắc chắn chúng ta sẽ có cách giúp cô, cô cứ an tâm mà nghỉ ngơi. Mai chúng ta còn có nhiều việc phải làm...”
Nói xong An Nam lấy chiếc ghế ra ngồi ngoài cửa lều, Ngư Nhi cảm thấy nơi chàng thanh niên kỳ lạ này tuy có vẻ lời ăn tiếng nói khác lạ, như từ sâu thẳm bên trong lại là một con người tràn đầy tình cảm và rất có nghĩa khí. Làm nàng có cảm giác rất ấm áp và yên lòng.
Sau buổi ăn sáng, cả nhóm người cùng nhau tiến vào dãy núi Mỹ Cụ. Lần này ngoài nhóm người Bảo Sơn và “Minh Sư” Hải Tâm còn có đám phu khuân vác nhiều thứ đồ lỉnh kỉnh đám người kéo dài thành một dãy như những chú bộ đội hành quân vượt dãy Trường Sơn khi xưa. Trèo lên ngọn núi thấp nhất là núi Phụng Hoàng, đứng trên cao ngó xuống thấy bên dưới cây cối thâm u, giống một rừng rậm nguyên sinh thu nhỏ.
Sau khi thả chiếc Flycam ( thiết bị bay điều khiển từ xa) cả nhóm chính cùng nhìn về màn hình xem địa thế. An Nam nói vui: “Thì ra là mọi người thời đại này biết dùng “Nhân Diều Du” àh. Khi xưa thời Cao Biền đã có dùng rồi... ahjhj. Phải dùng khí lực điều khiển, còn cái này dùng pin thôi...”
An Nam nghe Bảo Sơn nhắc nhở: “Thôi cậu đừng đùa... ăn nói linh tinh. Tập trung nhìn xem thế đất rồi xem chúng ta nên đi hướng nào vào chính huyệt...”
Lão Maru, đặt tấm bản đồ bằng da bò đã úa màu, có vài nơi bị thủng lỗ chỗ, xem ra tấm bản đồ này rất lâu năm, chỉ tay xuống vùng núi xuống bên dưới, rồi nói: “Thực ra hòn đá thiêng được người đời nhắc đến đã không tồn tại, cái hang mà ông nội của Mã chủ tịch nói đến cũng chỉ là truyền thuyết do người dân thêu dệt lên. Thực ra trước khi ông nội của Mã chủ tịch chết đi có để lại tấm địa đồ này chỉ nơi có hầm mộ. Có điều qua nhiều năm tháng mưa lũ xói mòn, dòng địa chất cũng đã thay đổi, con người lại đào phá khắp nơi, nên giờ rất khó tìm ra tung tích. Trên này lại có những dòng chữ cổ rất lâu năm, xem ra phải nhờ đến các bạn rồi...”
An Nam tay cầm tấm bản đồ đưa cho Ngư Nhi xem những dòng chữ mặc dù rất mờ nhưng Ngư Nhi bổng lật lại mặt sau, lấy trong túi ra một chất lỏng như keo bôi vào mặt sau, lấy chiếc bật lửa ra hơi nóng từ bên dưới, lập tức phía mặt trên tấm địa đồ hiện ra những dòng chữ rất rõ nét. Ngư Nhi xem xét xong rồi nói với mọi người: “Đây là chữ Lạc Việt cổ, được chạm khắc trên chất liệu da bò, dùng kỹ thuật khắc chìm bên dưới nếu có một hợp chất đun nóng, nhiệt lượng phát sinh sẽ làm cho dòng chữ khắc sâu này sẽ nổi lên.” trên đây có viết:
Nhan đao giao đao,
Danh trì soái khổng chi tướng.
Cổ giác mai hoa,
Thân lãnh giao châu chi vương.
Thiên địa tụ trung,
Trường sinh bất lão.
Dịch nghĩa ra là Nhan Đao giao kiếm thì sẽ được làm tướng quân oai hùng. Cổ giác mai hoa thì được làm vua Giao Chỉ. Thiên địa làm một thì sẽ trường sinh bất lão...”
Bảo Sơn lấy tấm bản đồ đưa cho An Nam nói: “Nghe thì dễ biết đây là dòng chữ cổ chỉ ra nơi chứa hầm mộ. Việc Phong Thủy này xem ra cậu phải ra tay rồi, hãy nói cho mọi người hiểu rõ hơn chuyện này là sao?”
An Nam vừa nhìn tấm bản đồ vừa đưa tay chỉ về những đỉnh núi trước mặt: “Trăm dặm nhìn “Hình”, ngàn dặm nhìn “Thế”. Núi Rùa là đỉnh nhọn nhất nên gọi là Nhan Đao, núi Hổ Phục bao bọc thấp hơn ôm lấy chân gọi là Giao đao, Long thân núi trễ xuống, bên sườn núi có một hàng cây như mang kiếm bên hông, tượng trưng cho đại tướng quân mang kiếm đi khắp nơi chinh chiến. Chỗ chúng ta đang đứng là núi Phụng Hoàng cao sừng sững hình cánh cung ôm trọn hai ngọn núi kia lại, gọi là Cổ Giác hay là Mai Hoa, thể hiện rõ là nơi Ngũ hành hội tụ hiếm thấy ngàn năm. Núi mà nằm ở trước cái huyệt mộ thì đời sau con cháu làm thống soái, dẫn quân đi chinh chiến khắp nơi. Nếu ba đỉnh núi tạo thành huyệt quan Cổ giác mai hoa, thì điều binh khiển tướng, tạo dựng thiên hạ, lập thành đế vương... Nếu không chôn cất, thì sẽ là nơi thích hợp luyện đan trường sinh bất tử... Đúng là thế bảo địa này chỉ có thể cầu chứ không thể gặp.”
Ngư Nhi nói: “Nghe qua thật đúng là nơi phong thủy bảo địa ngàn năm có một, nếu nơi này là nơi chôn cất phong thủy rất tốt, nhập thổ vi an xem ra thích hợp, chứ còn nghe nói đến đan dược trường sinh bất tử nghe rất mơ hồ...”
Bảo Sơn nói: “Đúng vậy thật ra phương thuốc trường sinh bất tử đã được các Hoàng đế trung hoa từ cổ chí kim luôn tìm kiếm. Bỏ ra không ít tài vật và con người mong tìm ra phương thuốc hoặc cách thức kéo dài tuổi thọ để giữ lại ngôi báu, lao tâm khổ não là vậy như ước vọng mãi không bao giờ có được. Người được xem là si mê giả thuyết trường sinh phải nói đến vị Hoàng đế thống nhất trung nguyên là Tần Thủy Hoàng, đến lúc chết cũng mong mình được tái sinh, nên xây lăng tẩm nguy nga tráng lệ mà nào được như ý, lúc về già cũng ngậm ngùi về nơi chín suối, trở về cát bụi như bao con dân bình thường khác mà thôi...”
Lúc này Mã Tôn sau khi nghe qua hết mọi việc, lòng hắn thấp thỏm nóng lòng, nên nói với ba người: “Thôi... thôi cho ngộ xin mấy lỵ á!... Mau tìm cho ra nơi vào hầm mộ. Bọn chúng ta không có nhiều thời gian nghiền ngẫm như mấy lỵ đang đi xem triển lãm đâu àh.... ày chà người thanh niên này, lỵ làm ơn làm phước xem dùm ngộ nơi nào xuống cái hầm mộ kia đi...”
An Nam lấy tay chỉ xuống dòng sông Si lượn quanh núi Rùa nói: “Giờ tìm hầm mộ thì phải xuống nước chèo thuyền rồi”