Sau khi đi qua lớp nước bùn vàng, sâu vào hang sâu hình vòng cung được lát bằng gạch đỏ. Phía trước xuất hiện một cánh cửa bằng gỗ Đinh Hương màu nâu đỏ, dù không biết chính xác nó đã xuất hiện tại đây đã bao lâu như chất liệu gỗ quý danh bất hư truyền này qua ngàn năm, không thể ảnh hưởng đến chất lượng của nó. Cánh cửa gần như bít kín lối vào, nhưng phía dưới chân đã chừa một rãnh sâu cho dòng nước vàng kia chảy ra, thật vừa một người có thể chui vào qua lối ấy. Giáo sư Sơn không nói gì chỉ lội xuống nước chui qua lỗ nhỏ ấy vào bên trong, chỉ chốc sau nói lớn vọng ra: “Mọi người hãy tránh sang bên, cửa này là cửa Môn hạ thủy sư, chỉ mở được từ bên trong, giờ thì chúng ta vào được rồi...”
Trong phút chốc cánh cửa từ từ mở ra theo những gì Bảo Sơn nói, mùi thơm càng lan tỏa ra làm ai nấy đều ngây ngất. Bước qua cánh cửa, cái mọi người kinh ngạc không phải là mùi hương kì ảo kia mà là những gì họ chứng kiến trước mặt mình, cảm giác không thể tả nên lời.
Một không gian như trong những câu truyện thần tiên mình đã từng xem qua, không ai ngờ rằng giữa lòng của ba ngọn núi truyền kỳ lại xuất hiện một thế giới tuyệt đẹp. Thành hang bằng đá vôi, rộng thênh thang và đẹp lung linh huyền ảo, dòng sông ngầm với lớp bùn vàng chảy uốn lượn ôm lấy lòng hang, rất nhiều những khối thạch nhũ to lớn long lanh, kỳ ảo và tráng lệ, những nhũ đá nối dài tựa như những áng mây bay và những nhũ đá tròn nhẵn có những giọt nước nhỏ xuống dòng sông ngầm vàng óng kia như bầu sữa mẹ ngọt ngào.
Cả nhóm người thẫn thờ nhìn cảnh vật xung quanh, bổng thót tim, lạnh cả sống lưng khi nghe những tiếng ken két như “nghiến răng” của ai đó vang vọng, trong lòng hang.
Thì ra là nằm chính giữa hang là một phiến ngọc xanh khổng lồ được tạc theo hình dáng của cối đá xay gạo dân gian, tổng thể hình bát giác. Tám phía được khắc chìm những câu ngữ chú khó hiểu. Nằm phía trên là một vật dài hơn 3m bằng ngọc, có hình dáng là một con rồng vàng, trên thân vật ấy có những vật nhỏ li ti màu trắng như như ngọc trong suốt, lấp lánh ánh sáng kỳ ảo. Cái cối đá bát giác ấy xoay tròn nhẹ nhàng nhờ sức dòng sông ngầm bên dưới, mỗi lần xoay chuyển lại tạo ra những âm thanh ken két như tiếng nghiến răng.
Giáo sư Sơn buột miệng thốt lên: “Thật sự ngoài sức tưởng tượng của tôi, nước Việt chúng ta thời gian gần đây phát hiện rất nhiều những hang động nguyên sơ tuyệt trần, thật sự đây chính là cổ vật trong tất cả cổ vật quý giá nhất mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Người ta thường nói núi có ngọc quý sẽ có mùi thơm, hang có sông ngầm sẽ có thần vật.”
Trong ánh mắt vui sướng khó tả, ông đưa tay chỉ vào cối đá ngầm ý dò hỏi Ngư Nhi xem là chữ viết gì, Ngư Nhi bước lại đi vòng qua các mặt đá chạm khắc trên cối đá, nhìn vào hồi lâu rồi nói: “Vô phi thần khí, bát nhi dĩ
Tiên tu cùng kỳ tạo hóa, cứu kỳ thanh trượt
Thiên tinh sanh phương khả thám nhiếp
Thứ sát kỳ hô hấp, minh kỳ tiết tự
Địa tinh ngưng phương tự
Luyến hấp, thiên địa khả thi
Đan linh khả thọ, nhi tinh khả hóa.
Tôi tạm thời dịch nghĩa ra là: Pháp bảo bát quái luyện thần khí, Tu tiên vượt qua thiên địa tuần hoàn, Hấp thu tinh lực Trời Đất tạo ra Linh Đan, bất tử dòng thời gian, cải lão hoàn đồng”
An Nam cười to: “Hahaha. Lại là một sản phẩm luyện linh đơn của các bật vua chúa Trung Hoa đây mà. Ngay từ đầu tôi đã nhận ra. Đây chính là lò luyện đơn mô phỏng theo lò bát quái của Thái thượng lão quân của phái Thiên Sư Đạo của sư tổ tôi. Tám hướng là tám mặt cắt theo phương vị Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài, đây gọi là Bát Thố Linh Pháp. Là dùng lực của dòng sông ngầm xoay chuyển cối đá sẽ sinh ra Hỏa địa, hấp thu linh khí mặt đất, lò luyện đơn này lại nằm ngay trung tâm ba ngọn núi tạo thành Tam xoa sơn dương, hấp thu dương khí, trên có cực dương dưới có âm mạch cân bằng âm dương, lâu ngày sẽ sinh ra linh thần lực, có thể tạo thành linh đơn ngàn năm.”
Ngư Nhi nhìn An Nam thắc mắc: “Cái này thì tôi không hiểu lắm, tại sao một pháp môn tu luyện linh đơn thuần Trung hoa cổ đại có mặt tại vùng đất Việt của chúng ta?
“Cô không biết đó thôi, từ thuở xa xưa tương truyền vùng đất Phương bắc có những kỳ nhân dị sĩ thuộc nhiều trường phái tu tiên, đã chu du khắp nơi tìm vùng đất thích hợp để luyện đơn. Ngoài ra linh đơn phân làm 2 loại “Nội đơn” và “Ngoại đơn”. Nội đơn là dùng công phu tu tập nhiều năm mà luyện thành. Còn Ngoại đơn là dùng những loại nguyên liệu quý hiếm mà tinh luyện ra, ngoài ra còn có thêm huyền thuật cộng vào ví như phong thủy bảo địa như nơi này xem như ngàn năm có một, rất tốt cho luyện thuốc trường sinh, ”
Giáo sư Sơn nói thêm: “Muốn biết thực hư thế nào chúng ta leo lên mặt cái cối đá bằng ngọc này sẽ rõ.”
Vừa nói xong An Nam đã nhảy lên mặt bên trên nói vọng xuống: “Tất cả lên đây. Có chuyện hay ho rồi... Quả thật là kiệt tác, chỉ có thể cầu chứ không thể thấy. Các người lên đây mà xem. Là Hoa Phật U Đàm Bà La trong truyền thuyết. Mọc rất nhiều trên thân thuyền này, mọi người lên đây mà xem...”
Cả nhóm cùng nhau trèo lên mặt chiếc cối ngọc, hình ảnh trước mắt thật quái lạ. Một con thuyền bằng ngọc trắng có những đường vân vàng đỏ chạy dọc thân thuyền, mũi và đuôi thuyền được tạc một con rồng bằng vàng, chính giữa là một quan tài bằng gỗ nguyên khối màu đỏ tía tạm thời chẳng biết thuộc loại gỗ gì. Lão Mã Tôn như thấy sự việc như thế bỗng quỳ xuống chắp tay nhìn lên trần hang vừa khóc vừa cười nói trong sự vui sướng: “Cảm ơn... ông trời đã cho ngộ tìm được nó. Xem như gia tộc họ Tôn của ngộ được phục hồi lại rồi... haha thật không ngờ hôm nay ngộ đã thay mặt gia tiên làm việc có ích cho gia tộc, thật không uổng công sức của ngộ mấy năm qua...”
Ngư Nhi nói: “Chuyện này là sao? Tại sao ông lại nói vậy. Con thuyền ngọc này là gì? Phải chăng nơi này là mộ phần của tổ tiên ông?”
Không đợi Mã Tôn trả lời, An Nam nói: “Đúng vậy con thuyền này rất giống hình dáng của thuyền Bát Nhã trong truyền thuyết, nó không phải là ngọc mà chính xác hơn là từ chất liệu gỗ Quỷ Kiếm Sầu ngàn năm hóa thạch. Con thuyền này chính là Trấn ma bảo khí, được đặt trên khối ngọc luyện linh đơn này, cố ý không cho tà ma quỷ dị xâm nhập cướp lấy linh đan mà làm chuyện sai quấy, gây họa thế gian. Xem ra trong này còn có một cơ quan khác. Hay còn gọi là Tịch điện bí mật luyện đơn, nhưng muốn mở nó ra thì không phải dễ dàng, nếu như chúng ta không biết bí mật để hóa giải. Phía trong khoang thuyền có một cái quan tài gỗ Mun đen nguyên khối, xem ra người trấn yểm nó phải là bậc phong thủy huyền thuật thuộc cao nhân, hay nói đúng hơn là tu vi ngan hàng với các vị Tiên Thánh mới làm được việc này.”
Chỉ thấy bà Minh Sư lấy một cái bình bằng vàng hình dáng kì lạ một quả đào tiên, mở nắp đưa cho đệ tử MaRu dùng một cái nhíp vàng gắp từng bông hoa U Đàm bỏ vào trong. Sau đó hắn đưa cho bà Minh Sư mù. Bà ta cười to: “Quả thật công sức ta bỏ ra nhiều năm không uổng phí, hôm nay ta có thể phát dương quang đại tiềm lực của mình rồi... hahah. Cái mà ta có chỉ là những bông hoa nhỏ này thôi. Còn lại những vật khác ta không quan tâm nữa ...”
Nói xong bà ta lấy cái đầu rồng vàng quái lạ trên cổ nhỏ vào quả đào vàng một thứ nước trắng đục, dùng tay lắc nhẹ, quả đào vàng chứa hoa U đàm phát ra ánh sáng huyền bí. Dùng thứ nước ấy uống vào. Lúc này bà ta bỏ chiếc kính râm ra, ánh mắt phát ra ánh sáng xanh nhạt rất quỷ dị, vài phút sau đó đã trở về trạng thái bình thường. Đưa đôi mắt nhìn xung quanh, quay sang nói với Mã Tôn: “Mã chủ tịch cảm ơn ngài đã giúp sức cho tôi tìm lại ánh sáng, được nhìn thấy thiên hạ giờ sắp nằm trong tay chúng ta nữa rồi... haha...”
“... hahah... mẻ cá này chúng ta lại thắng lớn nữa rồi đó Mã tiên sinh... Còn ngài thì nghĩ sao Phát Khâu trung lang tướng quân?.” Bà ta vừa nhìn giáo sư Bảo Sơn vừa cười vừa nói.
An Nam nhìn giáo sư Sơn ngạc nhiên hỏi: “Thầy ơi!... Bà ta vừa nói thầy là gì vậy? Phát Khâu trung lang tướng là sao? Chả nhẽ?...”
Bà Minh Sư nói: “Cậu ở bên một nhân tài trộm mộ thuộc dạng bậc nhất trong tứ đại Biệt Bảo trung hoa mà không biết sao? Đúng là chỉ biết huyền thuật và phong thủy thôi chưa đủ mà còn phải biết những thứ xung quanh mình, cố gắng học hỏi thêm. Thôi thì giờ ta cho cậu một ít kiến thức.
Phát Khâu Thiên Quan, Phát Khâu Linh Quan tên khác là Phát Khâu Trung Lang Tướng. Đến hậu Hán mới có, cùng Mô Kim phái là một trong tứ đại biệt bảo chuyên trộm mộ, thủ đoạn cùng Mạc Kim giáo úy cơ hồ hoàn toàn tương tự như nhau, chỉ là nhiều thêm một cái ấn bảo có tên “Phát Khâu Thiên Ấn”, bên trên ấn có khắc tám chữ "Thiên quan tứ phúc - bách vô cấm kỵ".
Nghe truyền thuyết nói cái ấn này đã bị hủy ở thời nhà Minh, thế gian không còn. Thủ pháp của phái Phát Khâu xuất cùng một mạch với phái Mô Kim nhưng kỹ thuật lại ít hơn Mô Kim một bậc, tuy rằng kém hơn Mô Kim nhưng lại thắng ở chỗ có sự phối hợp giữa các thành viên. Đối với luật lệ của phái Phát Khâu, mỗi lần hành động đều tụ hợp rất nhiều người, chuẩn bị tốt chi tiết kế hoạch, cho nên Phát Khâu trộm mộ thường rất ít gặp nguy hiểm, nhưng mà phiền phức nhất chính là cùng chia sẻ bảo mật tin tức và vì sợ phản bội của các thành viên nên luật lệ của Phát Khâu rất nghiêm khắc. Chặt tay moi mắt là chuyện xảy ra như cơm bữa.