Khách sạn bốn sao sang trọng Hoàng Lan ven bờ Hồ Tây, hai người thầy trò Bảo Sơn đóng vai hai người trong ngành khảo cổ di sản văn hóa trực thuộc cơ quan của nhà nước. Giáo sư Bảo Sơn lại có thẻ bên ngành khảo cổ, trực thuộc Trung ương, nên nhân viên khách sạn và mọi người xung quanh cũng không để ý đến những món đồ mà họ mang về phòng, chỉ nghĩ là họ đang thực nghiệm việc nghiên cứu gì đó mà thôi.
Sau khi mang hai linh vật thủy quái Makala về để trong phòng, lúc này An Nam mới lật ngược hai linh vật kia lên, dưới bụng của hai con vật, thấy bên dưới mỗi con có một đường kẻ nhỏ khoảng hai ngón tay, lấy chiếc dao nhọn cạy mạnh tay, tức thì rơi ra hai mảnh đá hình tam giác, trên đó có khắc những hoa văn thần nữ Chăm pa cổ An Nam cười nói: “Cháu biết là thế. Đích thị là nó rồi, hai mảnh Âm Dương này là chìa khóa mở ra Môn mộ.Ta lại chuẩn bị thu thập vài món đồ mới rồi đó giáo sư...”
Giáo sư Bảo Sơn vừa cởi áo khoác ra, máng lên vách vừa nói: “Cậu đừng vội vui mừng và tự tin quá sớm, không chuyện gì là dễ dàng cả, tôi và cậu cần phải ngồi lại bàn tính thêm. Nhớ cẩn thận giữ bí mật thông tin, hôm nay ta không tiếc lộ nhiều với gã Văn Trung kia, dù sao cẩn thận với những người chưa quen biết vẫn hơn.”
Lấy trong chiếc cặp da có cuốn sổ tay ghi chú trước đó, Bảo Sơn nói với An Nam: “Cậu nhìn xem .Trong sử sách cũng chép rằng thời vua Lê. Khi đánh nhau với quân Chiêm Thành, bắt được rất nhiều tù binh họ được đưa đến nơi này tập trung, lập ra nơi sinh sống bằng cách khai hoang vùng đất rậm rạp, heo hút quanh Hồ Tây trước đây, vùng này có tên khi xưa là Ngũ Dã.
Có những chuyện nằm ngoài chính sử cũng không thấy đề cập đến.Tương truyền vua Lê khi chinh phạt Chiêm Thành vô tình gặp được một mỹ nhân người Chiêm, nàng được vua Lê Thánh Tông yêu thương mang về triều, ban cho họ tên theo người Việt là Phạm Thị Ngọc Đô.
Vua Lê Thánh Tông rất yêu quý, sủng ái người phi tần gốc Chiêm Thành này không chỉ bởi nàng xinh đẹp, nết na mà còn vì nàng có tài khéo tay, giỏi thêu thùa, đặc biệt là có tài dệt vải Lĩnh. Vào cung một thời gian, vì thấy có những quan điểm khắt khe của Nho giáo, nhất là đối với việc một cô gái dân tộc Chiêm, sau một đêm từ một đất nước thua trận, bị bắt làm nô lệ lại trở thành phi tần được nhiều sủng ái của quân vương. Nên vua Lê Thánh Tông e là không tiện xuất hiện trong vương triều, nên mới quyết định để cho cung phi Ngọc Đô ở riêng biệt tại Ngũ Dã này.
Tại Ngũ Dã này, nàng cung phi Ngọc Đô đã khuyến khích người dân trồng dâu, nuôi tằm, lại đem nghề dệt vải Lĩnh bí truyền theo cách thức của người Chiêm, dạy cho dân chúng trong vùng Bưởi thuộc các làng :Trích Sài, Võng Thị, Bái Ân... Dần dần hình thành nên một vùng dệt có tiếng, nổi danh cả nước với các sản phẩm đẹp, đặc biệt là vải Lĩnh hoa.
“Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng
Khăn nhung quần Lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi...”
Trong một bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Bính có nói đến vải Lĩnh. Thế nhưng thật lạ, hầu như không mấy ai biết vải Lĩnh là vải gì. Sau hàng trăm năm kể từ khi xuất hiện, vải Lĩnh lại dường như bị "mất dạng" trong vốn hiểu biết của nhiều người dân Việt Nam. Vậy vải Lĩnh là gì? Lĩnh được dệt từ những sợi tơ tằm tốt nhất, được chọn lọc kỹ càng, cứ 5 sợi tơ tằm mới chọn được 1 sợi để dệt Lĩnh. Những thứ tơ được loại ra sau sau đó mới dùng để dệt lụa. Vì thế, Lĩnh quý và hiếm hơn Lụa. Lĩnh óng và nhẹ như vờn bay trong gió. Lụa tơ tằm mặc một lúc là có thể nhàu nhưng riêng vải Lĩnh dùng tay vò vẫn giữ dáng phẳng mịn. Khi được cắt may thành trang phục, vải Lĩnh tạo cho người mặc một cảm giác nhẹ nhàng, không dính bết vào da thịt. Vì thế, quần Lĩnh là thứ trang phục tôn lên vẻ đẹp " Thắt đáy lưng ong" của thiếu nữ Hà Thành xưa. Trên thế giới hiện nay không có loại vải nào giống Lĩnh của nước ta. Ngay cả Trung Quốc là nước nổi tiếng thế giới về dệt các loại vải từ tơ tằm, nhưng không có mặt hàng nào giống Lĩnh, có được đặc tính như Lĩnh. Chỉ có ở Việt Nam mới sản xuất ra được thứ vải Lĩnh đặc biệt này mà thôi.
Nhưng thật tiếc thay cho hồng nhan bạc mệnh, cung phi Ngọc Đô sinh nở một lần nhưng chẳng may không thuận, trời không thương nên cả mẹ lẫn con đều mất. Dân làng Trích Sài nhớ công ơn của cung phi Phạm Thị Ngọc Đô đã cùng nhau góp công, góp của, dựng lên ngôi miếu thờ và quen gọi là miếu Bà chúa dệt Lĩnh ở bên Hồ Tây. Trong miếu hiện nay vẫn giữ được tấm bia ký ghi lại công đức của bà và đôi câu đối ca tụng như sau:
“Chức nữ cơ ty, truyền mĩ nghệ
Cung nhân uẩn tảo, phụng ty phường.”
(Cô gái dệt tơ, truyền cho nghề quý
Người trong cung cấm, giúp dân làng.)
Người Chiêm Thành sinh sống lâu năm, hình thành những ngôi làng đặc thù quanh Hồ Tây suốt hàng trăm năm trời. Cái thôn nhỏ tên là Ngũ Dã, tức là một bãi bồi giữa sông hình một con Kỳ Lân, chia thành hai cụm lớn nhỏ, cái lớn cho việc sinh sống, cái nhỏ dành riêng cho việc chôn cất người chết. Sinh ven hồ, thì tử cũng ở ven hồ, sau nhiều năm tháng nên dưới đáy Hồ Tây, có hàng ngàn ngôi mộ. Tuy nhiên dòng đời thay đổi thiên nhiên xoay chuyển, lớp bùn đất bồi lấp, dìm những nghĩa địa này xuống rất sâu bên dưới. Một góc hồ phía Tây là một nghĩa địa người Chăm Pa cổ khổng lồ, rộng hàng chục héc ta.
An Nam nghe xong nói: “Chuyện đó thì cháu có nghe qua, nhưng quan trọng bí mật mà người đời không biết đó là. Khi bà cung phi Phạm Thị Ngọc Đô này chết đi, có mang theo rất nhiều vàng bạc, báu vật và ngọc quý của nước Chiêm Thành. Cổ mộ được các pháp sư Chăm Pa cổ phù phép trấn yểm chôn cùng hai mươi bốn thị nữ. Theo Động Nguyệt Ký, đây là trận pháp Nhị Tứ Âm Hồn Nữ, hai mươi bốn cung nữ này tượng trưng cho hai mươi bốn cung giờ, lại chọn nữ đồng trinh mà trấn yểm... e hèm... Phen này hơi khó xơi đấy thầy ạh!”
Giáo Sư Bảo Sơn xếp cuốn sổ tay lại, nằm xuống chiếc nệm gương mặt ưu tư nhìn lên trần, tay gác lên trán suy nghĩ mông lung.
Xuất thân từ tầng lớp trung lưu, Huỳnh Bảo Sơn được xem là một trong những sinh viên ưu tú thời ấy. Từ trẻ đã rất yêu thích ngành khảo cổ văn hóa dân gian, nên khi có cơ hội trong dịp trao đổi văn hóa sinh viên của khối xã hội chủ nghĩa, trong khi các bạn đồng trang lứa chọn Liên Xô, Ba Lan và các nước Đông Âu thì ông xin được qua đất nước Trung Quốc tu nghiệp tại đại học Quý Châu chuyên ngành văn vật khảo cổ, vì ông nghĩ đất nước này có bề dày lịch sử lớn và có rất nhiều điểm tương đồng với nước Việt Nam, nên sau này có thể giúp ích cho nước nhà.
Trong thời gian học tại đây, ông đã phải lòng cô sinh viên dễ mến học cùng ngành rồi nên duyên vợ chồng. Nhà vợ Bảo Sơn có một tiệm chuyên mua bán đồ cổ tại thành phố Quý Châu, sau đó lại may mắn được cùng cha vợ đồng hành trong những chuyến làm ăn mua bán cổ vật, nên ít nhiều cũng nắm bắt những mặt sáng tối của nghề này.
Không biết vì cớ gì khi hai vợ chồng có với nhau một đứa con trai đang hạnh phúc thì hôn nhân tan vỡ, ông về lại Việt Nam.Vợ ông tái hôn với người khác, nghe nói là một đại gia nào đó ở Nội Mông, đem theo đứa con trai duy nhất đi mất, sau này nhiều lần ông cố tìm kiếm thì bật vô âm tín.
Về lại quê hương, ông được trọng dụng về giảng dạy tại trường Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn. Được vài năm máu phiêu lưu lại trỗi dậy, ông viết đơn xin nghỉ việc, thế là từ đó ông trở thành nhà giáo bị”mất dạy” theo miệng lưỡi thế gian thường nói, cho đến nay.
Giáo sư Bảo Sơn từ lâu trong lòng ông có một ước mơ lớn là thành lập cho mình một bảo tàng nho nhỏ mang tên của chính mình. Là nơi tập hợp những bảo cổ vật thất truyền của đất Đại Việt. Ông thường nói với các sinh viên trên bục giảng “Nước Việt ta dù có trải qua bao sóng gió, thì cũng còn nhiều cổ vật quý giá không kém gì các nước trên thế giới. Dù cho trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc và cống nạp, nhưng bảo vật nước Nam cũng còn nhiều như sao trên trời. Nhìn thấy ngày nay cổ vật nước Việt Nam thất lạc khắp nơi, chảy máu cổ vật mà lòng đau như cắt. Thêm bọn trộm cắp, đạo chích hoành hành. Chúng ăn cắp cổ vật bán ra nước ngoài, cái nào bán không được thì phá, tượng quí hàng nghìn năm đem đi nấu chảy thành đồng. Con cháu đời sau mãi mãi không biết dân tộc ta hào khí tinh anh như thế nào. Quốc gia thì ngân khố và quốc lực có giới hạn, chưa có luật định rõ ràng, nên nhiều lúc bó tay mà đứng nhìn. Tôi thật sự không đành lòng, mong rằng các em cùng tôi có ý thức bảo vệ văn hóa Việt Nam, phải tìm mọi cách giữ lại một cái gì đó cho thế hệ mai sau...”
Chiều hôm ấy khi mặt trời chênh chếch về hướng tây, ánh sáng bầu trời bắt đầu nhá nhem. Cả ba người ngụy trang thành những dân câu, trên chiếc xuồng nhỏ. Gã Trung “trọc” nài nỉ giáo sư Bảo Sơn và An Nam cho hắn đi cùng, dù không thoải mái nhưng hắn rất quen thuộc nơi này giúp sức nên cũng thêm phần nào thuận lợi. Chỉ phiền tên này nói rất nhiều, huyên thuyên cả buổi kể về những sự tích của Hồ Tây, nào là Trâu vàng thời vua Lý, đến Cáo tinh chín đuôi bị chúa Liễu Hạnh thu phục, rồi những hồn ma lang thang trên mặt hồ. Hai người thầy trò Bảo Sơn nghe đến phát chán, nhưng có gã cũng đỡ buồn ngủ nên thôi chả nói gì thêm. Thực sự ba cái cần câu mang theo chỉ là vật ngụy trang, cả ba đợi đến đêm khuya hành động.
Quay lại sự việc trước. Khi ba người lên trên cái gò đất, trên mảnh đất nhỏ không quá năm mét vuông này, cỏ mọc um tùm chỉ trơ trọi một ngôi một “ba bia”, thế nào là mộ”ba bia” tức là xây theo kiểu người Chiêm Thành xưa, có một ngôi mộ chính nằm ở giữa, hai bên có thêm hai cái bia trái phải, ba tấm bia gọi chung là bia “Tả Hữu”, thực ra chỉ thắp hương bia mộ chính giữa. Nhưng theo dòng thời gian, người đời không biết cho nên mang theo lư hương đặt thêm vào hai bên trái phải trong cứ tưởng là có ba quan tài chung một mộ. Nên gọi chung quy là mộ ba bia là vậy.
Tiếng giáo sư Bảo Sơn nói nhỏ: “Tắt đèn pin đi, để tránh sự nghi ngờ xung quanh, anh Trung cầm chiếc cuốc đào ngôi mộ lên nhé!...”
Trung “trọc” tay cầm cái cuốc chim đứng lơ ngơ, đào hầm cuốc đất vốn dĩ bình thường thì chẳng có gì đáng nói, lần này lại là đào mồ cuốc mả nhà người ta, chuyện thất đức này này quả thật lần đầu tiên trong cuộc đời mà hắn làm, tay run run, chần chừ không muốn xuống tay. Nhưng đã lỡ xin theo đến đây, dù muốn dù không thì phóng lao đành phải theo lao mà thôi, hắn thầm nghĩ cũng hy vọng là lần cuối cùng làm việc này. Trước khi vung chiếc cuốc chim xuống hắn chắp tay trước mộ rồi nói: “Xin vong linh vất vưởng nếu có nơi này, bỏ qua cho tôi, nếu như lỡ động chạm đến nơi an nghỉ của các vị, tôi thề nếu có nhặt được xương cốt cũng nguyện đem về hỏa táng cho vào chùa mà nghe kinh giảng pháp, đặng mau siêu thoát...”
An Nam đứng bên không nhịn được cười nói: “Haha... Ông anh yên tâm, không có cái xác nào trong mộ này đâu, nếu có thì qua mấy trăm năm cũng đi theo lão gia gia Hà Bá cả rồi. Phía dưới kia chỉ là một nắp mộ thôi, nếu nhát gan thì anh có thể chèo xuống về, để đó bọn tôi làm.”
Hắn liếc nhìn An Nam, ngay từ đầu đã không có thiện cảm với thanh niên này, y có gì đó rất bí hiểm, tóc dài cột cao như lãng tử, điệu bộ cử chỉ cũng không giống lắm với người thời đại này, mà lại giống những diễn viên tuồng cổ. Nhưng kệ mẹ, đừng thách ông, mọi việc đã tới đây thì chả phải bận tâm. Bàn tay cứ thế bổ xuống, lát sau chiếc cuốc trên tay đánh mấy tiếng cộp cộp khô khốc vào một phiến đá bên dưới, hắn nghe tiếng An Nam nói: “Được rồi dừng lại. Anh lùi lại sau...”
Bước đến phía trước, cầm trong tay hai mảnh tam giác Âm Dương, đốt thêm ba nén hương thơm dài chín tấc cắm xuống đất, dùng một ít nước màu vàng chẳng hiểu là thứ gì được chứa trong hồ lô bằng gỗ, rải thẳng một đường dài theo chiều dọc trên nóc ngôi mộ, chợt thấy một làn khói trắng bay lên, cùng với đó là một âm thanh nghe rợn da óc, giống như tiếng huýt sáo vang lên to nhỏ từng cơn dưới nắp phần mộ thoát ra, nghe nổi cả da gà. Gã Trung “trọc” tay chân run rẩy, lông tóc dựng ngược nói trong lo sợ: “Là ai huýt sáo đấy... đệch mợ nó ma huýt sáo là có thật áh?”
Giáo sư Bảo Sơn nói: “Làm gì có ma nào huýt sáo, đó chỉ là không khí dưới một huyệt, bị bí bách nhiều năm, gặp khe hở thoát ra, khe đá nhỏ tạo thành tiếng kêu như tiếng huýt sáo mà thôi.”
Đưa tay phủi lớp đất trên mộ, nắp mộ giờ lộ ra một khe nứt chạy dài tách hai bên, ngay hai nắp mộ có hai khe nhỏ nằm song song hai bên dài một gang tay. An Nam quay sang nói với Bảo Sơn: “Thầy xem cháu đã hóa giải hồn khí còn lưu bên trong, giờ thì thấy hai khe nhỏ này là nơi đặt hai mảnh Âm Dương. Đúng là ta đã đoán chính xác, hướng hai con thủy quái Makala kia là hướng Đông Nam thuộc hành Tốn, vị chi ngược hướng Tây Bắc thuộc hành Càn. Khí vượng chủ tinh Tam Đình lớn, chôn ở Thượng hay Trung thì phát huy tác dụng rất chậm, còn chôn tại đây sẽ tạo ra phần Hạ, gần mặt nước thì phát phúc rất nhanh. Chứng tỏ người chọn nơi chôn cất này là cao nhân phong thủy. Nhưng bây giờ sau khi đặt Âm Dương khóa thì chúng ta nhớ bịt mũi lại, không thì nguy hiểm tính mạng. Đợi chốc lát khi nào hết khí tan hết thì mọi chuyện sẽ ổn, chúng ta có thể xuống hầm mộ được rồi.”
Vừa dứt lời An Nam đã dùng hai mảnh Âm Dương khóa nhấn xuống hai khe trống kia. Một âm thanh kéo dài, rên rỉ tựa như tiếng than khóc của những âm hồn ngàn năm trong huyệt mộ vang lên. Từ sâu trong nắp mộ giờ tuôn ra từng làn khí màu vàng nhạt, bầu trời bỗng hằn lên những tia sét ngang dọc, gió lay động những ngọn cỏ xung quanh. Làm cả ba như hít phải nguồn khí lạnh, gã Trung “trọc” da mặt tái nhợt, mồ hôi trên chiếc đầu trọc của gã tuôn ra như tắm, hét lên một tiếng ngã vật ra sau...