Chuyện Xà yêu bức hại gia đình nhà họ Quác xảy ra làm náo loạn nửa thành Thái Nguyên, Cốc sư phụ chân nhân bất lộ tướng bỗng nhiên xuất hiện ra tay tác pháp trừ yêu, dùng phép “đi âm” trảm đầu rắn, sau đó cùng với Mai Hào thiếu gia bay về tiên giới. Dân chúng rỉ tai nhau một đồn mười, mười đồn trăm, còn không quên thêm mắm dặm muối, cư nhiên trở thành câu truyện kì quái làm lòng dân hoang mang.
Trước sự việc như vậy, Cung Mặt Rỗ ra sức giải thích, kì thực là Cốc sư phụ sau sự việc trên, hao tổn tu vi, sức khỏe không tốt, nên đã ở lại Tam Đẩu Thánh Cô tịnh dưỡng cùng Mai Hào thiếu gia. Còn tin đồn trảm yêu xà là sự thật, gần đây hang Trấn Quỷ có con Xà yêu, nhiều năm trước gây thù chuốc oán với gia đình nhà họ Quác, oan gia tương báo nên giết phu nhân truy sát nhà họ Quác.
Theo lời Cốc sư phụ Xà yêu này tuy chỉ là động vật, nhưng lại là loài có linh tính nhất, thạo việc tu luyện, được chia thành ba cấp độ Thượng - Trung - Hạ. Loại thứ nhất sống ẩn dật nơi núi sâu rừng già, kiêng không bắt gà trộm chó, uống máu sát sinh, chỉ hấp thu nhật nguyệt tinh hoa, ăn gió uống sương, chịu được kham khổ, tu ngàn năm biến thành hình người, thoát khỏi sự diệt trừ của thiên la địa võng, thấu hiểu đại đạo. Loại thứ hai chuyên nương nhờ Sơn cước cổ đền, tìm kiếm các vị thánh nhân đắc đạo, suốt ngày quanh quẩn hầu hạ, cơm dâng nước uống, may mắn sẽ được điểm hóa. Còn thứ ba là tà ác nhất, nó thông qua giao cấu với con người, cưỡng ép đồng nữ hút âm khí, gần gũi đồng nam đoạt dương khí, hút các oán linh không siêu thoát ví như hang Trấn Quỷ nơi phạm nhân bị hành hình thành nơi tu luyện, nên thứ này Thiên Đạo bất dung. Con Xà yêu tại cửa hang Trấn Quỷ đã nhiều năm hấp thu đủ âm khí, không diệt trừ tất sẽ thành đại họa.
Chuyện Xà yêu vốn tưởng chỉ là tin đồn nhảm nhí trong dân chúng, giờ Nam Cung ngự sử đài nói thế, nào ai dám không tin! Cuối cùng sự việc xem ra cũng yên bình.
Lại nói về hai người Cốc sư phụ và Mai Hào sau khi lập đàn tác pháp trước cửa hang Trần Quỷ “đi âm”, cầu Cô Bơ Thoải dùng mái chèo thần trảm đầu Xà yêu, cứu hàng loạt linh hồn bị giam cầm được siêu thoát. Sau đó phát tâm nguyện xây dựng lại điện thờ Tam Đẩu Thánh Cô, địa chủ phú hộ trong vùng biết việc này, thi nhau quyên tiền giọt dầu, kẻ không tiền thì giúp sức xây dựng, chẳng mấy chốc gian điện thờ trở lại như xưa.
Ngọn núi Thiên Thai này rất kỳ quái, có hình dáng như một cái ấn khổng lồ, cắm thẳng giữa trung tâm, cô độc mà kiêu ngạo, ngạo nghễ thiên hạ. Không khí trên núi rất trong lành, không nhiễm bụi trần tục, ở đây tịnh dưỡng Cốc sư phụ đã cảm thấy sức khoẻ đang dần hồi phục.
Riêng Mai Hào thấy buồn chán đôi chút, nơi đây cái gì cũng tốt, chỉ có cơm nước không được ổn, bữa nào cũng khoai với củ mì, chay lạt thanh tịnh. Được cái trà nước không tồi, trà tự tay mình hái bên vách núi, dùng nước suối hãm trong ấm đất, nhẹ nhàng nhấp một ngụm, ngắm nhìn núi xanh mây trắng, lắng nghe tiếng chim kêu, ung dung tự tại bỗng thấy mình cũng có cảm giác tu hành.
Nhờ có Cốc sư phụ chỉ dạy thêm ngồi thiền trị liệu, sức khỏe tinh thần cũng ổn định lại. Ở nơi này mặt dù tốt lành, nhưng xem ra chỉ thích hợp với những vị chân tu, còn với một người trẻ như anh ta với bản chất ham chơi, thấy như bản thân bị lấy đi mấy phần thanh xuân, cứ như vậy mà chết già tại đây sao, suy nghĩ đó làm Mai Hào không cảm thấy thoải mái lắm, chỉ là quen nơi phố thị, phồn hoa đô hội, lời di huấn cha mẹ còn đó, sau sự việc thoát chết lần này cũng làm hắn thêm mấy phần nghị lực. Giờ thì trong đầu anh ta chỉ mong sao rời khỏi nơi này mà về nhà, với sức trẻ còn thời gian mà xây dựng lại sự nghiệp gia môn.
Cốc sư phụ một mực khuyên Mai Hào không nên tham luyến hồng trần, nhân lúc còn sớm bắt đầu hầu thánh là vừa. Biết Mai Hào chưa có ý định theo nghiệp lên đồng, Cốc sư phụ chỉ còn cách cảm khái, bảo Mai Hào trời sinh có căn Thanh Đồng, đã trải qua rất nhiều kiếp hầu đồng, nếu căn số đã đến còn không mau bắt ghế lính mà trình thánh: “Cậu sinh ra đã phú quý, tửu sắc tài khí cũng đã kinh qua, đó là hạo kiếp, sau này phúc hèn mệnh mỏng, căn số đến sẽ khổ dài dài, nếu nhận ra ngày sau theo hầu thánh, sẽ làm nên nghiệp lớn, khác chi thành nhân chi gian”
Lần nào cũng bị Mai Hào né tránh, tìm cách thoái thác, anh ta nghĩ có ngốc mới đi làm thầy đồng, cản trở con đường công danh, tự do tự tại có phải hơn không.
Mai Hào chắp tay cười lớn nói: “Hà... hà... Cốc sư phụ, ơn cứu mạng ta tuyệt đối không quên ơn ngài, nhưng ngài cũng biết, “ép dầu ép mỡ ai nỡ ép người” đúng không? …Xem như lần này tôi làm thất vọng ngài, tôi xin phép về gia môn vì còn rất nhiều việc quan trọng phải làm...”
Đã nói vậy thì duyên thầy trò chưa đến, tâm còn vướng bụi trần chưa trả hết có nói sao cũng vậy, chuyện theo hầu thánh nếu càng sớm càng tốt cho Mai Hào, Cốc sư phụ thở dài nói: “Haiz... Nếu đã vậy thì cứ thuận theo tự nhiên đi, ta nghĩ sẽ sớm thôi, nếu còn chần chừ không quyết sau này e rằng phát sinh nhiều chuyện không hay cho ngươi…”
Mai Hào tỏ ý ngạc nhiên: “Là phát sinh thêm chuyện gì nữa sao?”
Lão sư không nói gì chỉ âm thầm uống một tách trà, ánh mắt nhìn về phía dòng sông xa xa.
Mai Hào bấy lâu cứ thắc mắc không thôi, câu chuyện truyền thần của Cốc sư Phụ mà người đời truyền tụng có đúng như vậy không, nên nài nỉ xin người kể lại chuyện trước kia, vì sao lão sư phụ lại có mặt tại nơi này? Cốc sư phụ ngồi xuống, nhìn xuống dòng sông Hồng, kể cho Mai Hào nghe về câu chuyện của chính mình.
Câu chuyện này xảy ra nhiều năm về trước tại thôn Trạch Dã cũng chính là quê nhà của Cốc sư phụ. Thời điểm đó, Cốc sư phụ mới được tám, chín tuổi, ngài tên là Quàng Cốc, con thứ hai trong nhà, nên mọi người thường gọi là nhị tiểu Cốc.
Năm đó, thôn Trạch Dã gặp đại hạn, mắt thấy lúa sắp chết khô, nước trong sông hồ cũng cạn dần, mặt đất nứt nẻ thành những lằn ngang dọc, cứ thế này thì nguy hiểm trước mắt. Các vị hương thân phụ lão, như đã thành ước định, hoặc cũng có thể nói là một loại “thủ hộ” cho thôn, cùng nhau ra miếu Thành Hoàng linh thiên, cúng bái lễ nghi đủ cả mà vẫn không thấy điều kỳ thiên nào xảy ra. Đến lúc tưởng như không còn cách chi, thì chẳng bao lâu có người trong thôn Trạch Dã nằm mộng thấy thánh hiển linh nói rằng sẽ có người đến giúp, tất cả hãy chuẩn bị tôn nghiêm mà tiếp đón, đúng ba ngày sau sẽ xuất hiện kỳ nhân.
Dù sao cũng là một tia hy vọng, dân làng trông ngóng được gặp vị kỳ nhân kia, đến ngày tất thảy vui mừng kéo nhau ra đầu thôn đợi, đợi cả nửa ngày cuối cùng cũng gặp được. Nhưng khi gặp rồi không khỏi ngỡ ngàng, mắt chữ O, mồm chữ Ô….cao nhân gì đây? thánh thần cũng biết đùa với chúng sanh sao?
Đến xế chiều, xuất hiện một cô bé khoảng chín, mười tuổi, cao không hơn con nghé, thân mình ốm tong teo, gương mặt lạnh tanh, mái tóc xõa xuống như cố giấu đi một con mắt đã tàn khuyết, không ai biết tên, cũng không biết từ đâu đến, giống như từ trên trời rơi xuống vậy.
Cô ta thân mặc bạch y, đầu đội đấu lạp, chân quấn xà cạp, vai đeo một hộp gỗ, tay cầm một cành sen hồng, chậm rãi đi từ ngoài thôn Trạch Dã ung dung bước vào. Bước chân đi đường cũng rất kỳ quái, nửa người trên cơ hồ không động đậy, hai chân bước từng bước, mỗi bước gần như đều bằng nhau, mặt không biểu tình, chỉ nhìn thẳng phía trước, cứ thế mà đi, người khác nhìn thôi cũng cảm thấy áp lực.
Cô ta hình như đã đi được quãng đường rất xa, nhưng tuyệt nhiên không hề có một giọt mồ hôi, không chút mệt mỏi, cứ như hoàn toàn an tĩnh, giống nhân vật trong truyền thuyết dân gian vậy. Tất cả những lời hỏi thăm danh tính, hay lời phỉnh nịnh đều bỏ qua tai, không trả lời một câu, cứ thế nhẹ nhàng bước đi một mạch đến miếu lớn thờ Thành Hoàng.
Trước khi cô ra tay, mọi người đều cảm thấy, người này nhất định không đơn giản, kiểu cách rất giống Thánh Cô, nghiêm chỉnh, thủ tín, uy phong. Mọi người đoán già đoán non rằng trong hộp gỗ thần bí đeo trên vai cô ta nhất định có một thanh bảo kiếm thần, kim quang lẫm lẫm, kiếm khí xung thiên, một khi ra khỏi hộp, kiếm khí lại càng như rồng ngâm phượng vũ, vương vấn ảo ảnh, mãi không tan biến.
Giữa miếu Thành Hoàng có một cái giếng cổ nghìn năm, nước giếng đã nhiều năm qua luôn trong xanh thanh mát, chỉ khi nào cần cúng bái mới dùng đến, nói ra mới thấy tà quái, dạo gần đây bỗng nhiên trở nên đen thui, còn có vị mặn tanh hôi, rồi sau đó cạn rất nhanh, sâu không thấy đáy, sau đó không ai còn dùng đến, từ rất lâu đã bị đậy lại.
Cô bé thần bí bước đến bên miệng giếng, đưa tay đẩy nấp, nheo mắt nhìn xuống bên dưới, cứ thế đứng một khắc, sau đó từ từ dùng tay mở hộp gỗ, chậm rãi từ tốn lấy ra một cây gậy ngắn. Không phải một thanh kiếm hàn quang lẫm lẫm, kiếm khí bức người, như mọi người vẫn nghĩ, ngược lại, đó là một cây gậy thô sơ cũ nát, thân gậy lồi lõm, còn có mấy vết hằn rõ ràng, chẳng khác nào một cây củi mục đã dùng mười mấy năm, lại thêm những chiếc chuông trên thân có cái méo móp đến không ra hình dạng. Cô nhìn cây gậy trong tay một cái, đột nhiên ra tay, cây gậy từ một cây củi khô bỗng nhiên biến sắc, trở nên trong suốt như pha lê, lúc trắng lúc đen, các quả chuông vàng ngân lên tiếng kêu leng keng thanh thoát, kim quang tỏa sáng rực rỡ, quả thực cho thôn dân mở mang tầm mắt, thế nào là thánh lực… đây là hèo Bạch Dạ trong truyền thuyết đấy sao?
Từ trong giếng bỗng có tiếng ho khan sặt sụa, giống như một có một lão già bên trong giếng vậy, rồi bỗng chốc phụt lên một cột khói đen sì sì, cao đến mấy trượng. Thôn dân vây xem lúc đó, thấy việc lạ không khỏi choáng váng, Cô bé mặt vẫn không chút biểu cảm, chẳng quan tâm xảy ra chuyện quái sự gì, bình thản nhìn làn hắc khí kia một thoáng, tay cầm chiếc hèo Bạch Dạ múa lên cực kỳ quái dị, vô cùng chậm, từ từ nâng hèo lên xoay, xoay đủ một vòng thì lại từ từ hạ xuống, cơ hồ là hạ từng tấc từng tấc một, khiến người vây xem cũng sốt ruột. Cô chỉ quay một lúc thế thôi, sau đó kết thúc nhẹ nhàng, cất cây hèo vào hộp, lại từng bước từng bước quay lưng đi ra khỏi thôn.
Mọi người ngập tràn hy vọng ngước nhìn làn hắc khí trên miệng giếng, nghĩ liệu trong làn khói đen đó có con tà con quái nào thành tinh rơi xuống không, thậm chí liệu dưới miệng giếng kia bò lên một con vật quái lạ nào đó, nhưng đợi hồi lâu mọi chuyện vẫn bình thường, cả thôn già trẻ ai nấy đều thất vọng tràn trề.
Bóng dáng kỳ nhân kia vừa biến mất khỏi cuối thôn, bỗng nghe “rầm” một cái, có thứ gì đó rơi xuống từ trên cao, máu tươi đầm đìa, đập mạnh, giãy dụa lên mặt đất, cát bụi bay mù mịt, kèm theo là tiếng rên khóc thê thảm lắm. Mọi người lúc này bị doạ cho chạy tán loạn, đợi đến lúc vật trên rơi xuống rồi, dòng hắc khí cũng dần tan hết, có người gan lớn bước qua xem, không nhịn được hô to: “Là rồng... không phải…là là rắn to lắm luôn!”
Từ trên mặt đất xuất hiện con vật dài khoảng mấy trượng, toàn thân phủ vảy cứng như giáp sắt, trong vừa giống rồng vừa rất giống hắc mãng, ngay giữa đỉnh đầu có một chiếc sừng cong vút ra sau, đích xác là một con “Giao”, ít hơn rồng một sừng, nhưng lại nhiều hơn rắn một cái.
Trưởng thôn đi tới xem, không kìm lòng tấm tắc khen, nói hèo pháp quả kì ảo, vài đường hèo vung ra dứt khoát, ngay cả xương cốt cũng bị đập gãy nát, gậy pháp này quả thực là thần pháp rồi!
Trong đám có người am hiểu chuyện liền nói, thì ra đây là một con hắc giao, nó đã âm thầm dưới giếng sâu, làm ổ nơi mạch nước, nên hút hết thủy nhưỡng khiến cho khô hạn, gây lầm than cho bá tánh. Ai nào biết đúng sai chỉ xem như là lời nói có lý.
Dân chúng thấy con “Giao” đã chết, bu lại đen đỏ, lấy gậy lấy chân đạp vào, phát hiện con “Giao” này chỉ lớp vảy bên ngoài còn nguyên, bên trong thịt xương tựa hồ bị ai đó lấy chày giã cho nát như tương, phần bụng xé rách một đoạn.
Rồi hồi tưởng một chút, lúc cô bé kia lấy ra hèo Bạch Dạ trông rất chậm, di chuyển từng chút một, lẽ nào là do ra đòn quá nhanh, giữa hèo và thần pháp phối hợp hình thành pháp ảnh, mắt phàm nhân không thể nhìn kịp cho nên nhìn mới thấy chậm? Có người cảm khái, đây mới là chân nhân bất lộ tướng, vị Thánh cô kia sợ gây ra hoảng loạn, cố tình dùng pháp khí giữ thi thể của con “Giao” ở trên không trung, đợi đến lúc đã đi xa rồi mới rơi xuống, người này e chính là Thánh Cô hạ phàm!
Tất cả khi hiểu ra cớ sự mới đồng lực quay về hướng Thánh Cô vừa khuất, vái lạy tạ ơn.
Từ đó không ai còn thấy vị kỳ nhân kia xuất hiện, những tưởng chỉ là ảo mộng, là truyền thuyết, vậy mà vị kỳ nhân truyền thuyết ấy lại xuất hiện đúng người, đúng lúc. Người có được vinh hạnh ấy không phải ai khác mà là nhị tiểu Cốc.
Lúc đó nhị tiểu Cốc như thường lệ đi bắt cua cá ven sông, hôm ấy đã xế chiều, đến một mỏm đá ven sông, khói sương phủ mờ bãi sông vắng, nhát thấy có bóng người nhỏ nhắn ngồi trông ra giữa dòng sông, người này ngồi xếp bằng trong tư thế thiền định, hàn quang trên thân lập lòe, lúc ẩn lúc hiện, nhị tiểu Cốc đứng ngẩn ngơ ra đấy nhìn ngắm, người đó sau đó đứng lên đeo hộp gỗ, chuẩn bị rời đi. Nhị tiểu Cốc đưa tay dụi mắt mấy lần, mới xác định mình không nhìn lầm, chính là vị kỳ nhân Thánh Cô thần bí.
Nhị tiểu Cốc sau lần chứng kiến vị kỳ nhân kia hành pháp diệt hắc giao, trong lòng không quên sự uy vũ ấy, ghi khắc tâm can. Hắn vốn tính hiếu học, về âm thầm tìm hiểu sự tích về những vị Thánh Cô, hết đọc sách, sau gặp lão hỏi lão, gặp cụ hỏi cụ, biết tường tận mọi câu chuyện liên quan đến các vị Thánh này, từ việc tế thế chúng sanh, bảo hộ nhân gian, lòng âm thầm phát thệ một ngày nào đó gia tiên phù hộ được ân ban, gặp được người sẽ một lòng hầu thánh giá, lời phát thệ ấy không biết cao bao nhiêu, rộng bao lớn, ấy vậy mà hôm nay ước mơ ấy được thể hiện ra trước mắt, nào ai bỏ qua cơ hội quý này, nhị tiểu Cốc vội chạy theo.
Lúc này đều kì lạ là nhị tiểu Cốc vừa chạy gần đến thì vị kỳ nhân kia càng xa, mặc dù bản thân đã cố chạy đến, còn vị kia thì vẫn bước đi chậm rãi mà không biết sao không thể tiến lại gần, càng chạy càng xa. Sau một hồi thì sức lực cũng hết, bất lực ngồi phệt xuống đất, nước mắt tuôn dài, không phải là mệt mà là sự cố gắng của mình không kết quả, chả nhẽ ơn trên không nhìn thấy lòng thành.
Nhị tiểu Cốc thở không ra hơi, hai tay chống gối, nước mắt tuôn rơi không kìm lòng nổi thành kính nói: “Xin ngài dừng chân cho kẻ hạ nhân nói với ngài một câu được không?”
Thánh cô lúc này dừng lại, vẫn không quay mặt lại, hình như muốn nghe nhị tiểu Cốc nói. Nhị tiểu Cốc biết đây là cơ hội liền tranh thủ: “Ngài quá mệt rồi, nên nghỉ ngơi một chút đi.”
Đây vốn là một câu nói cực kỳ bình thường, không ai chú ý, đừng nói là từ miệng của một đứa trẻ ngây ngô phát ra. Nhưng Thánh nhân kia lại dừng bước, cuối cùng nói: “Ta không thể nghỉ, chúng sanh vẫn còn lầm than, họ luôn trông mong ta.”
Nhị tiểu Cốc lắc đầu: “Đã là thân con người chung quy phải nghỉ ngơi, trừ khi ngài không phải là người.”
Thánh cô sau câu trả lời vốn đã định rời đi rồi, kiên định bước từng bước, bất cứ ai cũng không thể ngăn cản. Nhưng nghe câu nói này, bỗng nhiên ngẩn người, bàn chân dừng giữa không trung, một hồi không đặt xuống. Rất lâu sau đó, Thánh cô mới thu chân lại, nghiêm túc quay mặt nhìn nhị tiểu Cốc. hỏi: “Nếu ta nghỉ ngơi, ai giúp ta bảo vệ thế gian này?”
Nhị tiểu Cốc không hề nghĩ ngợi, nói: “Cháu…là cháu”
Thánh cô gật gật đầu: “Được...vậy ta nghỉ ngơi một ngày.”
Nhị tiểu Cốc hào hứng: “Thế cháu sẽ giúp ngài bảo vệ thế gian này một ngày.”
Thánh Cô cười: “Một ngày có lẽ không đủ.”
Nhị tiểu Cốc cũng cười: “Được, vậy đợi cháu lớn lên, cùng ngài bảo vệ thế giới 200 năm.”
Sau đó cả hai bước đi vào tảng đá ven sông gần đó ở lại nói chuyện. Thánh cô nói, bản thân đã làm sai một việc, chính là mang thân con người, bản thể bên trong là Thánh nhân, thân xác phàm nhân cần phải nghỉ ngơi, mình nhiều năm giúp thiện nam tín nữ, cuốn vào nghiệp quả vay trả, lại không màng thân xác, ngược đãi khiến nó đau đớn, có lẽ đó là một cái sai nên cứu độ mãi mà vẫn không đủ công quả đắt đạo, là do không ngộ thấu đạo lý này, vì thế không thành.
Thánh cô kỳ thực đã tìm ra Thần lộ, nhưng lại không dứt được hồng trần, cho nên mãi vẫn chẳng thể rời đi, lời của nhị tiểu Cốc cảnh tỉnh ngài, cuối cùng Thánh cô cũng buông tay, thế giới tự nhiên sẽ có người thay ngài bảo vệ.
Nói chỉ vài ba câu, lại nghe tiếng gà gáy sáng trong thôn bắt đầu một ngày mới. Thánh cô nhìn nhị tiểu Cốc, lúc đó vẫn còn là một đứa bé, nói là cảm tạ cậu đã giúp ta.
Lúc sắp đi, Thánh cô vỗ vai nhị tiểu Cốc nói: “Đừng quên nhé! , sau này nhớ cùng ta bảo vệ thế giới này 200 năm!”
Nhị tiểu Cốc cung cung kính kính gật đầu, đứng nhìn Thánh Cô bước đi ra giữa dòng sông, nở một nụ cười mãn nguyện, hóa thành hàn quang biến mất trong hư vô….
Kể từ đó nhị tiểu Cốc có cơ duyên được học âm cùng thánh nhân, từng bước trở thành lão đạo nhân Cốc sư phụ như hôm nay.
Cốc sư phụ kể vừa xong câu chuyện của mình, Mai Hào nghe xong như uống được nước Cam lồ, ánh mắt quá đỗi kinh ngạc, miệng há hốc không khép lại được, như vừa chứng kiến một việc vừa hư vừa ảo, tâm trạng hỗn loạn, người bình thường, đọc sách thánh hiền cũng dễ hiểu những lời Cốc sư phụ nói không phải là không có thật.
Đột nhiên Mai Hào nghĩ đến một chuyện, hỏi Cốc sư phụ: “Đúng rồi, sau đó Thánh Cô đi đâu vậy? Không phải thầy đã đáp ứng cùng Thánh cô bảo vệ thế giới 200 năm sao?”
Cốc sư phụ gật nhẹ đầu, nhìn hang Trấn Quỷ sau Tam Đẩu Thánh Cô, nhẹ nhàng nói: “Còn hai năm nữa.”
Mai Hào có chút rõ ràng rồi: “Vậy thầy đã giúp Thánh Cô 198 năm rồi? Vậy ngài ấy cũng ở đây hả?”
Cốc sư phụ vẫn nhìn vào hang Trấn Quỷ đó, không nói một lời. Theo ánh mắt của Cốc sư phụ nhìn sang, ngôi điện thờ Tam Đẩu Thánh Cô di thế độc lập, ngạo nghễ chúng sinh, tựa như một phong ấn kình thiên áp chế Quỷ Môn.