Hàn Ngọc Sương nói:
“Chuyện ấy đương nhiên, Kiếm Trì bọn ta nào dám thách thức Võ Hoàng điện hạ, vươn tay quản chuyện chấp pháp, hành pháp ở Đại Việt? Thế nhưng, xưa nay vẫn nói pháp không nghiêm, không phục chúng. Không biết Dương bổ đầu đây có chứng cớ gì hay không?”
“Trưởng lão, muốn biết ngay hay gian, đến nha môn một chuyến đối chất chẳng phải sẽ rõ ràng hay sao? Dương mỗ lấy danh dự đảm bảo tuyệt nhiên sẽ không để vị tiểu thư đây ngậm hàm oan.”
Dương Trí bình tĩnh nhìn Hàn Ngọc Sương, thoáng cúi đầu hành lễ, mặt lạnh như tiền.
Đỗ Thải Hà nhìn về phía thi thể của Hạ đại ca, lắc đầu đưa tay:
“Vậy phiền bộ đầu dẫn đường.”
“Người đâu! Đưa gông lên!”
Dương Trí vừa hạ lệnh, sai dịch đằng sau đã xúm lại, đeo gông, xiềng tay chân Đỗ Thải Hà lại. Những người này phần lớn là tu vi thấp kém, chỉ có nhất cảnh nhị cảnh, thành thử đi lên “bắt giữ” cô nàng cũng run lẩy bẩy, trong mắt hiện rõ vẻ kiêng dè.
Thanh Diện La Sát thấy thế, tím tái cả mặt, quát:
“Đúng là một lũ ăn hại! Lúc nhận bổng lộc, uống rượu ăn thịt thì sao không thấy các ngươi run tay?”
Hàn Ngọc Sương thấy dáng vẻ chỉ hận rèn sắt không thành thép của vị bổ đầu này, lắc đầu khuyên:
“Dương bổ đầu, thôi đi. Là người ai cũng có thiên tính xu cát tị hung mà. Những người này tu vi như thế, Đỗ cô nương lại là thiên kiêu chiến lực kinh người, khi nàng ta chưa bị giam cầm tu vi, họ sợ cũng là lẽ thường.”
“Thế nhưng, chức trách tại...”
“Được rồi, được rồi, mười lăm năm mà cậu vẫn là tên đầu gỗ như trước. Đứng trước công kích của cường giả, chức trách hoàng quyền có bảo vệ được bọn họ không? Cùng lắm là chỉ có trả thù, cho họ một cái công đạo. Càng nhiều hơn là ngậm tăm, dĩ hòa vi quý, đưa cho thân nhân những người này chút bồi thường. Cậu làm quan đã lâu, những chuyện này hẳn phải rõ hơn ta, vì sao cố chấp như thế?”
Hàn Ngọc Sương lắc đầu.
Dương Trí cũng không nói gì nữa, chỉ bảo đám thuộc hạ tốc tốc cáng thi thể của Hạ đại ca và dẫn Đỗ Thải Hà về nha môn quy án.
Vì uyên nguyên của Bạch Đàn tinh và Thái Tổ Lê Đồ Thành, thành Bạch Đế không giống với những thành khác ở Đại Việt. Nơi đây không có huyện lệnh, toàn bộ quyền lực cả thành đều do phủ thành chủ chưởng khống.
Dưới trướng thành chủ, lại có ba chức quan đặc biệt là Chưởng Ấn, Chưởng Bút, Chưởng Kiếm.
Quan hàm “ngụy tứ phẩm”, không thuộc quản hạt của triều đình, không vào chầu thánh, ngoại trừ đích thân hoàng đế và đông cung thái tử gặp bất cứ ai, vô luận là vương gia vọng tộc hay đại quan quý nhân đều chỉ cần làm nửa lễ. Ba vị Chưởng Quan đều không phải do hoàng đế chỉ định, mà là đích thân thành chủ thành Bạch Đế bổ nhiệm.
Tuy là “ngụy phẩm quan”, nhưng vô luận là lễ nghi quyền lợi, bổng lộc hàng năm đều không thua gì mệnh quan tòng tứ phẩm thực sự.
Chưởng Kiếm phụ trách trị an và binh mã, Chưởng Ấn quản lý đối nội, Chưởng Bút thì lo chuyện đối ngoại.
Nói không ngoa, thành Bạch Đế chẳng khác nào một nước chư hầu riêng ngay trong lòng lãnh thổ Đại Việt. Có nói thành chủ thành Bạch Đế có quyền lực không thua gì vương gia hoàng tộc cũng không quá.
Dương Trí và nha dịch giải Đỗ Thải Hà vào thành, đến một tòa phủ đệ rộng thênh thang, trên cửa đề biển ghi ba chữ thếp vàng “Chưởng Ấn Đường”, ngoài cổng để hai pho tượng thân hổ đầu rồng, mắt trợn tròn xoe, nhe nanh giơ vuốt, thực là uy phong lẫm lẫm. Hơn nữa trong mắt có thần, ẩn ẩn giống như là vật còn sống chứ chẳng phải tượng đá vô giác vô tri.
Đôi tượng đá này không phải tạc loài nào khác, chính là tượng của Bệ Ngạn. Dân gian nói loài này công bằng công chính, ưa kiện tụng, ghét ác như cừu, thường kê trước cửa nha môn công đường để thị uy. Đối với người Đại Việt, Bệ Ngạn càng có vị trí tâm linh hết sức quan trọng. Năm xưa khi Thái Tổ kéo quân từ biển vào, lá cờ và hộ oản, khải giáp đều có họa tiết Bệ Ngạn, có thể nói là tộc huy của họ Lê trước khi xưng đế.
Đáng tiếc, ngoài đời tộc Bệ Ngạn không được may mắn uy phong như trong tín ngưỡng dân gian. Chỉ vì lỡ cho mồm đi hơi xa, chọc giận Chiến Hổ, hiện tại đã tuyệt chủng.
Dương Trí dẫn Đỗ Thải Hà đi qua cổng, tiến vào một nơi trông gần giống như công đường.
Ngồi trên chỗ các quan vẫn thường ngồi xử án là một lão già râu cá trê, mặt dài, trên bàn tay xoay chuyển một cái ấn bằng gỗ chạm trổ hình một con quái điểu đầu có mào lớn đang cuộn mình rỉa cánh, hai mắt khảm hai viên ngọc trai lớn độ bằng hạt mè, chính đang không ngừng tỏa ra hàn khí.
Dương Trí giải Đỗ Thải Hà vào, để cô nàng quỳ xuống, nói:
“Hồi bẩm Chưởng Ấn đại nhân, tì chức đã y lệnh áp giải nghi phạm đến đây.”
Chưởng Ấn quan gật đầu một cái, tay phẩy như đang đuổi ruồi, nói:
“Tốt. Ở đây không còn chuyện của ngươi nữa, mau lui xuống đi.”
“Đại nhân, ti chức mấy năm nay làm việc dưới trướng đại nhân trung thành cẩn cẩn, không có công lao thì cũng có khổ lao. Xưa nay Dương mỗ chưa từng đòi hỏi đại nhân chuyện gì, hôm nay có một nguyện vọng nhỏ nhoi, mong được đại nhân thành toàn.”
Dương Trí cắn răng, bước lên phía trước một bước, nói.
Chưởng Ấn nhướn mày, hỏi:
“Ngươi không tin bản quan?”
“Tì chức không dám. Chỉ là đã nhận lời của một vị ân nhân phải đảm bảo cô nương đây được xử án một cách công bằng công chính.”
Dương Trí đáp, vết bớt xanh trên mặt hơi giật giật, khiến gương mặt gã lúc này trông dữ tợn mười phần.
Chưởng Ấn vỗ bàn, quát:
“Dương Trí to gan! Bản quan xưa nay làm việc thiết diện nghiêm minh, chí công vô tư, ngươi muốn nhục nhã bản quan? Hà huống, Chưởng Ấn làm việc, khi nào đến lượt một tên bổ đầu cỏn con đứng giám sát? Ngươi là cái thá gì?”
“Tì chức không dám. Vẫn mong đại nhân thành toàn...”
Dương Trí hơi cúi đầu, chắp tay, song vẫn cắn răng đứng trơ trơ giữa công đường, không có vẻ gì là sắp lui ra ngoài cả.
Chưởng Ấn thổi râu, nói:
“Được. Đã thế thì ngươi cứ đứng đây đi. Kẻ đứng dưới công đường kia, còn không xưng tên?”
“Dân nữ Đỗ Thải Hà.”
Đỗ Thải Hà mở miệng, chậm rãi lên tiếng, trên gương mặt hiện tại là vẻ thất thần và có phần lờ đờ thiếu tập trung.
Chưởng Ấn quan đưa tay vuốt chòm râu cá trê, hỏi:
“Có người đến chỗ bản quan tố cáo ngươi độc ác bất nhân, ở khu rừng ngoại thành giết chết một vị lương dân họ Hạ. Lời này ngươi có phục hay không?”
“Bẩm đại nhân, thú thực là bản thân dân nữ cũng không rõ. Vẫn xin đại nhân trình chứng cớ lên đi.”
Đỗ Thải Hà thở dài, lắc đầu.
Đến giờ cô nàng vẫn chẳng tài nào hiểu nổi rốt cuộc ban nãy ngoài bìa rừng có chuyện gì xảy ra, vì sao rõ ràng tấn công quỷ đói mà người bị hại lại là Hạ đại ca, vết thương trên người y cũng hệt như bị pháo chân khí của xe tăng giấy đánh trúng.
Chưởng Ấn quan vỗ bàn, gằn giọng:
“Điêu dân to gan! Bản quan đã cho nhà ngươi một cơ hội để tự nhận tội, giảm nhẹ hình phạt mà còn không biết điều, tiếp tục lừa trên dối dưới. Được! Hôm nay bản quan sẽ để nhà ngươi tâm phục khẩu phục! Người đâu, đưa bằng chứng lên!”
Chỉ thấy một gã trung niên ăn vận theo lối thư sinh khẽ “dạ” một tiếng, sau đó phất tay, lấy trong tay áo ra một miếng Lưu Ảnh Thạch. Gã vừa quán chân khí vào, tràng cảnh đã từ trong tinh thể phóng ra, chiếu rọi rõ mồn một giữa chốn công đường.
Chỉ thấy...
Hai người thiếu niên nam nữ đứng đối diện nhau.
Hạ đại ca lớn tiếng kêu:
“Chờ đã! Chúng ta chẳng phải là đồng hương sao? Hà...”
Đáp lại y, chỉ có tiếng nổ vô tình của pháo chân khí. Hạ đại ca cứ trơ trọi mà đứng như trời trồng, từng viên đạn chân khí được nén chặt nện vào người y, sau đó nổ tung ra, khiến toàn thân y chẳng mấy chốc đã đỏ lòm những máu, thịt nát xương vụn bắn tung tóe khắp nơi. Cứ mỗi lần trúng một đòn, y lại văng ra sau một bước, nhưng vẫn gắng gượng đứng dậy hết lần này tới lần khác.
“Ta... không... cam... tâm...”
Cuối cùng, chân cứng đá chẳng mềm...
Hạ đại ca nấc lên một tiếng, nôn ra một búng máu tươi cuối cùng, hai con ngươi đã hoàn toàn mất đi ánh sáng.
Ngã vật ra đất...
Hình ảnh trong Lưu Ảnh thạch dừng lại ở đây.
Chưởng Ấn quan quát lớn:
“Phạm nhân Đỗ Thải Hà! Bây giờ chứng cứ đã rành rành, chỉ cần Ngọ Tác của chúng ta khám nghiệm tử thi của nạn nhân, lập tức có thể khép tội. Ngươi còn không chịu quy án?”
Đỗ Thải Hà thẫn thờ nhìn hình ảnh đang được Lưu Ảnh Thạch lặp đi lặp lại trước mắt, đoạn cười thảm một tiếng.
Đầu cúi xuống...
Nàng ta bất giác lại nghĩ đến cái tiểu viện nằm trên núi Vô Danh, nơi có mèo đen chó trắng (1), trâu già dâm kê, Hồng Vân tiên tử.
[1: Biên tập chú thích: đã nhìn thấy ngược màu rồi, cơ mà hỏi thì tên chủ bút bảo là cố tình do tâm trạng của Hà lúc này đang "chân nhặt lá tay đá ống bơ" tí. Cái vừa rồi dùng ngược cũng là cố tình nốt nhá]
Ngoài ra còn có một người...
Khoảng ba mươi tuổi, tóc búi củ hành, râu lún phún, mặc áo vải, bình thường hay lóng nga lóng ngóng, thích thơ thẩn, ham ngủ lười biếng, thế nhưng trong mắt luôn có tia sáng, thường dạy bọn họ không được làm những chuyện lạm sát vô tội, khi nam bá nữ...
“Sư phụ, đồ nhi bất hiếu, không còn mặt mũi nào gặp lại người nữa.”
Đỗ Thải Hà rơi nước mắt, lúc này cảm xúc cuồn cuộn, giống như động chạm đến vết thương, mặt đỏ lựng lên.
Phụt một tiếng, nôn ra một búng tâm huyết.
Chưởng Ấn quan nói:
“Không còn gì để nói phải không? Chiếu theo luật lệ của Đại Việt, kẻ lạm sát vô cớ tống vào thiên lao khổ sai mười năm, người đang có chức trách trên người tội tự tăng một bậc. Bản quan phán ngươi tự phế tu vi, cả đời làm Tượng Phường binh! Người đâu, còn không chuẩn bị thi hành án...”
“Chờ đã!!!”
Chỉ thấy từ ngoài cửa, một thiếu niên vận áo trắng, tay cầm quạt giấy thản nhiên bước vào công đường.
Bấy giờ, vô luận là Chưởng Ấn quan và sư gia đang đứng trên cao, mấy tên sai dịch cầm gậy gộc hộ vệ hai bên hay Dương Trí đều không nhịn được cùng xuất hiện một ý nghĩ trong đầu.
“Nếu trên đời có ba đấu tuấn tú, một mình kẻ trước mặt đã chiếm hết hai."
Ghen tỵ!