Tạ Thiên Hoa rời khỏi trấn Thiết Khanh, vừa đến cửa mỏ Cô sơn thì đã nghe sau lưng có tiếng chân người đạp lên thảm cỏ lạo xạo. Cước bộ kẻ này đến hư thoát, phù phiếm, không giống như là của tu hành giả. Loáng thoáng đằng sau lại cất lên tiếng thở dốc, có vẻ như người bám theo cô nàng đến được mỏ Cô Sơn là đã kiệt sức rồi.
Thể lực không tốt, không phải người tu hành, lại có lý do để bám theo Tạ Thiên Hoa ngay cả sau chuyện ở nha môn thì cô nàng chỉ có thể nghĩ đến một người mà thôi.
Cô nàng ngoái đầu, cười với thiếu nữ đang chống cả hai tay vào đầu gối mà thở khó nhọc từng hơi một, nói:
“Kiều tiểu thư, quả nhiên là cô.”
“Đào... Đào đặc sứ.”
Kiều A Bích vừa nói được bốn chữ, đã ho khan một tiếng, ôm ngực vì khó thở. Tạ Thiên Hoa thấy thể lực của cô nàng yếu đến thế, không khỏi lắc đầu, đi đến bên cạnh đỡ Kiều A Bích, đỡ nàng ta ngồi xuống một cái xe đẩy quáng bỏ hoang bên vệ đường. Nhìn cô nàng cả người đầy mồ hôi, hai chân rướm máu, thở cũng khó nhọc, Tạ Thiên Hoa bất giác sững người.
Lúc này, cô nàng chẳng còn nghĩ gì đến chuyện liệu mình có thể đối đầu được với Cửu Liên vương và Thẩm Tam Vạn, cũng tựa hồ như quên mất mới nãy đã phải thả người trong ấm ức và bất đắc dĩ như thế nào. Cơ hồ là theo bản năng, Tạ Thiên Hoa choàng tay qua, ôm ngang bả vai Kiều A Bích, nhỏ giọng:
“Tự mình chạy được đến tận đây, khổ sở cho em rồi. Yên tâm, không sao rồi...”
Lúc này, Kiều A Bích vùi mặt vào cánh tay Tạ Thiên Hoa, những tiếng rấm rứt nhỏ bé vang lên và vệt nước còn lưu lại trên tay áo là minh chứng duy nhất của hàng nước mắt vừa mới đổ xuống.
Tạ Thiên Hoa biết, lúc này, hành động lí trí nhất chính là nói lại đúng những câu cô nàng đã từng bảo Cố Tiểu Ngũ lại với Kiều A Bích. Nói với nàng ta rằng nàng ta quá yếu, rằng xuống dưới hầm mỏ rồi chỉ tổ trở thành gánh nặng, làm vướng chân vướng tay. Song... cô nàng không tài nào lên tiếng nổi.
“Tự dưng lại đèo bòng thêm chuyện vào người thực không giống mày chút nào, Hoa ạ.”
oOo
Cuối cùng, Tạ Thiên Hoa vẫn không yên tâm để Kiều A Bích lại khu sinh hoạt một mình như đã làm với Cố Tiểu Ngũ. Dù sao, hiện tại Thẩm Tam Vạn đã được thả ra, tin tức tiểu thư nhà tri huyện bỏ nhà đào hôn chắc chắn cũng sớm lọt đến tai lão. Lúc này, cả Thiết Khanh trấn, Kiều A Bích có thể nói là tứ cố vô thân, ngoại trừ Tạ Thiên Hoa thì chẳng còn ai để mà nương tựa.
Nếu Tạ Thiên Hoa là Thẩm Vạn Tam, thì nơi đầu tiên cô nàng đi tìm chắc chắn sẽ là mỏ Cô Sơn. Thành thử, đắn đo hồi lâu, cuối cùng Tạ Thiên Hoa vẫn quyết định để Kiều A Bích theo sát mình, cùng xuống khu khai thác.
Chuyện này đối với Cố Tiểu Ngũ mà nói quả thực là không công bằng, song sự cấp tòng quyền, cô nàng cũng chẳng còn cách nào khác.
Đã có kinh nghiệm khi trước, lần này Tạ Thiên Hoa xe nhẹ đường quen, cước trình rút ngắn rất nhiều. Lại thêm lần này xuống mỏ không cần kiểm tra kỹ lưỡng từng li từng tí một hai bên đường để tìm manh mối, thành thử, mặc dù dẫn theo một tiểu thư liễu yếu đào thơ như Kiều A Bích thì cũng chẳng tốn bao lâu, hai người đã đến cánh cổng quái lạ.
Tạ Thiên Hoa đi trước, Kiều tiểu thư nhà tri huyện theo sau, rồng rắn nối đuôi dẫm trên con đường đá gập ghềnh của mỏ Cô Sơn. Bóng tối chung quanh cảm giác như càng lúc càng trở nên đặc quánh, càng xuống sâu trong mỏ lại càng trở nên nặng nề. Xa xa, thỉnh thoảng lại vọng đến âm thanh kêu réo quái lạ, không rõ là tiếng con dơi con chuột bị cái hang khuếch đại hay thực sự là âm thanh do một loài quái vật không tên phát ra.
Chỉ biết, càng vào sâu trong mỏ, sắc mặt Kiều A Bích càng kém, gương mặt tái nhợt cả đi, thỉnh thoảng lại run lẩy bẩy, bước chân cũng bắt đầu xiêu xiêu vẹo vẹo. Tạ Thiên Hoa thấy vậy, thở dài, tìm một chỗ bằng phẳng rồi lấy trong túi chứa đồ ra một cái ghế xếp “trôm chỉa” của ông sư phụ trước khi rời khỏi Quan Lâm.
Tiểu thư nhà tri huyện lần đầu tiên trông thấy thứ ghế kỳ quái có thể xếp gọn lại như vậy, không khỏi cảm thán kêu lên một tiếng kinh ngạc.
“Đào... đặc sứ... thứ này thần kỳ quá. Tiểu... tiểu nữ được ngồi sao?”
“Thôi đừng có một câu Đào đặc sứ, hai câu Đào đặc sứ nữa. Tên thật của chị là Tạ Thiên Hoa, hai ta trông cũng không chênh nhau mấy tuổi, cứ gọi nhau là chị em nhé?”
Có thể do đồng bệnh tương liên, cũng có thể do nỗi ấm ức chuyện bị ép hôn chất chứa trong lòng quá lâu, mà Tạ Thiên Hoa vô thức cảm thấy gần gũi thân cận với Kiều A Bích. Người sau chẳng những văn tĩnh, tính cách dịu dàng tựa như hoa lê đón mưa, càng khiến người khác muốn nâng niu thương tiếc. Lại thêm cô nàng cảm thấy mình cũng chẳng còn ở trấn Thiết Khanh thêm bao lâu nữa, thành thử quyết định không tiếp tục che giấu thân phận với Kiều A Bích.
“Vậy... Tạ tỷ tỷ?”
“Thế mới phải chứ. A Bích này... em là người ở đây, lại là con nhà trâm anh thế phiệt, đọc rộng hiểu nhiều. Không biết có từng nghe truyền thuyết về núi Cô Sơn này chưa?”
Tạ Thiên Hoa tự lấy một cái ghế khác ra cho mình, đoạn hỏi.
Lần này xuống hầm mỏ, cô nàng tuy có đọc hết một lượt sử liệu liên quan đến núi Cô Sơn, cũng đã biết về “nguồn gốc” của cánh cổng tuyết tùng theo chính sử. Thế nhưng, giờ đây khi nhìn tận mắt, Tạ Thiên Hoa mới phát hiện sử liệu chính cống xem ra là không đáng tin cậy. Đám sử gia Đại Yến hiển nhiên cá mè một lứa, định che giấu sự thật về cánh cổng. Mà đám quái vật xuất hiện trong hầm mỏ Cô Sơn có thể có liên quan gì đó đến cánh cổng tuyết tùng niên đại cả vạn năm này. Đương nhiên, đấy cũng chỉ là một khả năng mà thôi.
Tạ Thiên Hoa trước là tự trách bản thân đã chủ quan, sau lập tức đã nghĩ đến truyền thuyết của dân địa phương về Cô Sơn có thể có manh mối gì đó. Vốn là cô nàng định bụng khi quay lại hầm mỏ sẽ lập tức hỏi thăm Cố Tiểu Ngũ, song cậu chàng nửa chừng lại quyết định ở lại trấn Thiết Khanh. Về sau đúng là có gặp Kiều A Bích nửa chừng, nhưng tiểu thư nhà tri huyện thân thể yếu đuối, phải cẩn thận chiếu cố.
Bao nhiêu chuyện như thế, thành thử Tạ Thiên Hoa cũng quên bẵng mất không hỏi, mãi đến lúc này dừng chân nghỉ ngơi, có thời gian cho đầu óc thả lỏng, cô nàng mới sực nhớ ra.
Kiều A Bích nói:
“Chắc chỉ có truyền thuyết kiếm tiên là nhiều người biết đến nhất thôi.”
“Kiếm tiên? Núi Tiên Phần? Em kể ra nghe xem nào...”
“Tạ tỷ tỷ đoán nhanh thật đấy. Nghe các vị lão niên trong trấn kể lại thì trước đây rặng Cô Sơn và dãy Tiên Phần vốn là một thể, là bức tường thành ngăn cách Đại Yến với ngũ quốc, xưng là Thành Sơn.
Thành Sơn che chắn Đại Yến, khiến các nước khó bề tấn công, dân chúng nước Yến từ lúc lập quốc đến giờ cũng hiếm khi phải chịu cái khổ của chiến loạn. Song sự vô thập toàn. Thành sơn khô khốc, lại cao chọc tới mây, sông Ô giang nước Tề không tài nào chảy vào được, khiến cho phương bắc Thành Sơn quanh năm hạn hán, dân chúng chẳng thể nào trồng trọt nuôi thân, chỉ có cách săn thú đẵn cây đắp đổi qua ngày. Ngặt nỗi trên núi lắm dã thú, nhiều yêu tinh, cuộc sống vô cùng khó khăn.”
Giọng kể của Kiều A Bích vừa trong vừa ấm, cơ hồ khiến Tạ Thiên Hoa nghe đến xuất thần. Mãi đến khi nàng ta ngừng lại một chốc lấy hơi, nhị đệ tử của cổ viện mới giật mình tỉnh lại, âm thầm khen một tiếng.
Lại nghe tiểu thư nhà tri huyện kể:
“Về sau xuất hiện một kiếm tiên thân cao hai trượng, cầm một thanh Thạch Kiếm khổng lồ xuất hiện. Y vung một kiếm bổ ngang, khiến Thành sơn thấp đi một nửa. Đá từ Thành sơn văng tứ phía, tạo thành núi lớn núi nhỏ trải dài hơn năm trăm dặm hai phía đông – tây Bằng Sơn quan, đến giờ được gọi là vùng Thiên Sơn. Y lại bổ một kiếm, cắt đôi Thành Sơn, khơi dòng cho Ô giang chảy vào Đại Yến, giúp dân chúng có thể trồng trọt, có nước để uống.
"Trăm năm sau, ngàn năm sau, cũng không ai biết, chỉ biết là kiếm tiên quay lại Thành sơn, dựng mộ rồi tạ thế trên núi. Từ đấy rặng phía đông Ô giang gọi là núi Tiên Phần, phía tây thì là Cô sơn.
“Kiếm tiên chết không bao lâu thì Ô giang đổi dòng, nước sông khô cạn, từ đấy lòng sông khi xưa trở thành con đường độc đạo kết nối Đại Yến với hai nước Tề, Hàn ở phía nam. Lối đó gọi là Ưng Sầu giản, do nhát chém của kiếm tiên để lại khiến vách núi hai bên nhẵn như mặt gương, chim ưng bay lượn trên không tưởng là đồng bạn, đâm đầu vào núi mà chết. Bằng Sơn quan, trước là Thái Bình thành, được lập nên là để tọa trấn đường độc đạo này.”
Kiều A Bích kể xong, lặng lẽ khép chân, hai tay đặt lên gối, yên lặng không nói tiếng nào.
Lúc này, Tạ Thiên Hoa đã chống tay lên cằm, trầm ngâm suy nghĩ, thỉnh thoảng lại chun mũi nhăn mày một cái. Nghe Kiều A Bích kể về kiếm tiên cao hai trượng mà cô nàng bất giác nghĩ đến cánh cổng gỗ quái lạ ngăn cách khu sinh hoạt và khu khai thác của mỏ Cô Sơn.
Cánh cổng ấy ngoại trừ niên đại lâu đời, dày quá khổ ra, còn cao bất thường. Cơ hồ có nói là cổng thành cũng chẳng quá. Cồng kềnh như thế, lại nặng trình trịch, đối với người bình thường thì quả thực là vô cùng bất tiện.
Thế nhưng...
Nếu như là một người có kích cỡ của vị kiếm tiên kia sử dụng, vậy thì chẳng phải vừa vặn thoải mái hay sao?