Đừng nói là Lâm Thanh Tùng, cho dù bản thân Nguyễn Đông Thanh đứng ở đây thì cũng sẽ giật mình hoảng sợ trước mấy quyển sách Phó Kinh Hồng đưa ra.
Không vì nguyên nhân khác, mà là vì mấy quyển sách này sử dụng kỹ thuật hiện đại ở địa cầu để đóng.
Bìa sách không phải giấy không phải vải, không phải lá không phải lụa... đơn giản vì đấy là nhựa mềm. Mà kỹ thuật dùng để vẽ bìa sách đương nhiên không phải thủy mặc chấm phá mà Nho môn vẫn dạy, mà là lối vẽ của truyện tranh, sử dụng bút nước ngòi nhỏ, sau đó in bằng máy. Mang thứ này về cho người của Huyền Hoàng giới xem há lại không bị coi là thần thánh ra tay, người phàm không thể nào vẽ được như vậy hay sao?
Huống hồ...
Chẳng rõ từ lúc nào, nhưng một vài quyển sách dã sử gã viết chơi chơi vì thích đã bị Hồng Vân chuyển thể thành truyện tranh, đóng thành tập hẳn hoi. Hiện giờ đã rơi vào trong tay Lâm Thanh Tùng.
Lâm cựu Tế Tửu giở từng trang, thấy một loạt tranh ảnh sống động như thật, cơ hồ thích thú đến quên cả ăn ngủ. Nét vẽ sắc mảnh có thần, phối hợp thêm một số vòng tròn có đuôi dùng để đánh dấu lời nói của nhân vật. Tuy không sử dụng các loại hành văn tao nhã, chi hồ giả dã của nhà Nho, nhưng thắng ở tính thông tục. Thậm chí, vì lượng chữ ít ỏi mà câu chuyện lôi cuốn, Lâm Thanh Tùng cảm thấy có thể dùng thứ này để dạy người ta đọc sách cũng chưa biết chừng.
Mà lão càng nghĩ, lại càng cảm thấy đây đúng là phong cách hành sự của Nguyễn Đông Thanh. Những quyển sách này đối với cánh văn nhân nhã sĩ như lão thì chẳng có bao nhiêu tác dụng, cũng không được hấp dẫn, nhưng đối với người bình thường mà nói thì quả thật giống như đo ni đóng giày vậy. Lão đọc hết một quyển, vừa lúc nghĩ đến đây, bất giác thảng thốt nhớ lại lần “thể hiện” cầm kỳ thư họa ở thành Cổ Long ngày nào.
“Không ngờ người tìm mình quả thật là Bích Mặc tiên sinh không nghi ngờ gì nữa. Thế nhưng... nếu là y, vậy thì những câu chuyện này hẳn còn có công dụng khác.”
Mấy quyển sách lão nhận được cũng không dài. Bấy giờ lão nhắm mắt, cẩn thận ngẫm lại nội dung vừa đọc.
Sách đầu tiên, cũng chính là kể về một tướng mặc giáp bạc, cầm Bạch Hạc Tùng Vân Đảng, tên là Nguyễn Hữu Cầu. Y và Phạm Đình Trọng là tướng nhà trời, vì đánh nhau mà bị đày xuống hạ giới. Sau đó cơ duyên xảo hợp cùng học một thầy, thi thố tài năng với nhau từ bé. Lớn lên, Cầu giết quan chiếm núi xưng vương, gọi là Quận He. Quận He đánh đâu thắng đó, mãi đến lúc Chúa Trịnh tìm được Phạm Đình Trọng thì mới hàng phục được.
Cầu bị bắt giam trong cũi, đọc bài thơ Chim Trong Lồng rồi chết. Có kẻ canh tù nghe được chép lại, thơ rằng:
“Nhất lung thiên địa tàng thân tiểu
Vạn lý phong vân cử mục tần
Hỏi sao sao luỵ cơ trần
Bận tài bay nhảy, xót thân tang bồng
Nào khi vỗ cánh rỉa lông
Hót câu thiên túng trong vòng lao lung!
Chim oanh nọ vẫy vùng giậu bắc
Đàn loan kia túc tắc cành nam
Mặc bay đông ngữ, tây đàm
Chờ khi phương tiện dứt dàm vân lung
Bay thẳng cánh muôn trùng tiêu Hán
Phá vòng vây làm bạn kim ô
Giang sơn khách diệc tri hồ?”
Lạ nỗi Phạm Đình Trọng sinh sau Cầu ba năm, Cầu chết ba năm thì Trọng cũng cưỡi hạc.
Chuyện thứ hai thì kể về một người tên là Nam Cường, có thuật rải đậu làm binh, nuôi âm binh quỷ tướng, phép phù thủy cao cường. Về sau trong một lần chạy trốn, do dải áo sặc sỡ của vợ thò ra khỏi chỗ trốn mà bị bắt xử trảm.
Sách thứ ba kể về chàng Lía, cũng là kẻ chiếm núi làm vua, cát cứ cả một vùng Truông Mây rộng lớn. Về sau Lía cướp vợ quan về làm vợ, y thị làm nội ứng phá thành từ bên trong mà thua trận. Gã chạy vào trong núi, được một ông cụ kiếm củi cứu mạng cho ăn, bèn tự chém đầu mình đưa cho lão nộp quan để báo ơn. Ông cụ chôn cái đầu của Lía xuống núi, đoạn nhìn ra Truông Mây rồi hết chuyện.
Mà quyển cuối cùng thì đặc biệt hơn cả. Trừ bìa sách và chữ viết nhỏ đều chi chít, dường như là cùng một loại “thư pháp” với lời thoại trong ba quyển trước thì nó đúng là một quyển tiểu thuyết mà lão thỉnh thoảng vẫn xem.
Hơn nữa, sách này còn sớm đã bị liệt vào cấm thư của Huyền Hoàng giới.
Thủy Hử truyện.
Tương truyền sách này xuất phát từ Đại Thục, do Lương Sơn vương cho người sáng tác để quy tụ nhân tâm, lật đổ hoàng thất. Sau đó lại tiến một bước cầm quân càn quét bốn phương, đúc nên bá nghiệp đời đời.
Lương Sơn quân hấp thu nạn dân tứ xứ, đông như kiến cỏ, hung hãn như một bầy châu chấu, quả thật đã chiếm được kinh thành. Mà Lương Sơn vương cũng tự xưng là Cập Thời Vũ, tiến một bước xưng đế.
Về sau, Quan Vân Phi dẫn Quan gia quân trợ giúp vương tử Cảnh xuất chinh, trong một tháng đánh hạ bốn thành, hai quận, mười ba trấn, cũng viết nên khởi đầu trong truyền kỳ của Vạn Nhân Đồ. Vó ngựa Quan gia quân đạp bằng núi Lương, chỉ còn một đỉnh núi thấp – Táng Hoa sơn – là nguyên vẹn. Song... sáu nước thấy Đại Thục vì một quyển tiểu thuyết mà bất ổn, nhao nhao liệt Thủy Hử truyện vào hạng cấm thư.
Từ đó sách này cũng mất tăm mất tích trên Huyền Hoàng giới. Ngoại trừ giáo chúng Trang Bức thần giáo ra, thì duy chỉ có các thư viện lớn là còn biết đến.
Nếu không phải Lâm Thanh Tùng thân là Tế Tửu Quốc Tử Giám, lại là con của viện trưởng lớn nhất Đại Việt thì chắc chắn không thể nào tiếp xúc được đến sách này.
oOo
Vài ngày sau...
Phó Kinh Hồng đúng hẹn đến Thập Lý Đào Viên thì Lâm Thanh Tùng đã đứng chờ sẵn trước cửa lều, mấy quyển sách gã đưa đặt ngay ngắn trên bàn đá. Vừa thấy hắn, lão cựu Tế Tửu đã lên tiếng:
“Phó tướng quân...”
Miệng nói, tay lão cũng đã làm thủ thế mời, bàn tay hướng về một tảng đá nhỏ. Phó Kinh Hồng trả lễ xong, bèn theo lời lão ngồi xuống. Bấy giờ mặt Lâm Thanh Tùng lạnh như tiền, trong mắt hiện rõ vẻ nghiêm túc làm kẻ thân kinh bách chiến như Phó Kinh Hồng bất giác cũng ưỡn thẳng sống lưng.
Lâm Thanh Tùng chờ họ Phó an tọa, rồi mới hỏi:
“Phó tướng quân thân là người Đại Sở, sát với Đại Thục, hẳn phải biết quyển Thủy Hử truyện này là sách cấm được cả bảy nước công nhận?”
“Phải. Thực ra tại hạ đọc xong cũng hiểu phần nào nguyên do.”
Phó Kinh Hồng gãi gáy.
Thực ra, hắn còn có một câu không tiện nói ngay với Lâm Thanh Tùng, ấy là chuyện gã đọc Thủy Hử cũng thấy nhiệt huyết sôi sục, duệ khí bừng bừng. Dù sao, cái gọi là “giao thiển ngôn thâm” chính là đại kị của đời người.
Lâm Thanh Tùng nói:
“Vậy là tốt. Lâm mỗ tạm coi như tướng quân đã đọc xong Thủy Hử truyện. Dám hỏi ngài cảm thấy hành động quy an của Tống Công Minh là đúng hay là sai?”
“Chuyện này quả tình có hơi khó nói... Về lý, tại hạ cho rằng Tống Giang làm không sai. Nhưng về tình thì... có chút không sảng khoái.”
Phó Kinh Hồng biết người trước mặt là một thành viên của Nho môn, rất nhiều chuyện Lâm Thanh Tùng cũng sẽ đứng từ góc độ của Nho gia sĩ tộc để cân nhắc, trái với một tướng quân xuất thân nghiệp võ đạo như gã. Thành thử, gã mới cẩn thận lựa lời, muốn dò xét xem thái độ của y ra sao.
Lâm Thanh Tùng nhìn ra vẻ do dự trong mắt gã, xong lão chỉ cười, hỏi:
“Chúng ta là người làm đại sự, trước khoan nói chuyện tình cảm. Về lý trí thì tướng quân cho là Tống Công Minh đúng ở đâu?”
Phó Kinh Hồng nói:
“Quân Lương Sơn chỉ có ba con đường để lựa chọn. Thứ nhất là nhất quyết tạo phản đến cùng, mãi đến khi bị thảo phạt hoặc lật đổ được triều đình mới thôi, có thể nói là con đường người chết ta sống, không có lối lùi. Mà loại chuyện này thì tương đương với tự sát.”
“Xin được thỉnh giáo cao kiến của tướng quân.”
Lâm Thanh Tùng chắp tay, khách sáo một câu, đoạn chờ Phó Kinh Hồng tiếp tục giải thích.
“Lương Sơn phần lớn là tội phạm sơn tặc, quan lại bị ép phản lên núi, không có thế gia sĩ tộc chống lưng, không có ruộng đất tiền tài để mà tuyển binh mua ngựa. Thời buổi trong tiểu thuyết cũng chưa phải lúc quân phiệt cát cứ, chiến tranh loạn lạc, sĩ tộc lại càng chẳng có lí gì vào rừng làm cướp. Lương Sơn trước không có chính danh, sau lại mất thiên thời, cho dù có chiếm được quận huyện thì thế gia địa phương cũng chẳng nghe sai khiến. Đây là điều thứ nhất.
“Không nói chuyện thần quỷ hoang đường thì tướng lĩnh Lương Sơn hội họp chỉ bằng một chữ ‘nghĩa’. Lúc hàn vi thì đây là ưu, nhưng nếu muốn mở rộng thì lại là nhược điểm lớn. Về sau tướng sĩ nhiều người vẫn còn giữ tính tặc phỉ, thậm chí mở quán ăn thịt người, đối với danh tiếng của Lương Sơn chỉ có hại. Nhưng vì nghĩa khí ràng buộc, Tống Giang có muốn cũng chẳng thể làm gì. Trên không bảo được dưới, bàn gì đến tranh thiên hạ?
“Cuối cùng là nhân tâm. Tướng sĩ Lương Sơn nhiều kẻ chỉ muốn ăn miếng thịt to, uống ngụm rượu to, sảng khoái làm cướp, không có chí công thành đoạt đất. Lại thêm trên dưới Lương Sơn không có nhân tài về nội chính, chiếm được đất cũng không giữ được đất. Có ba điểm này, nếu Tống Giang muốn phản đến cùng, thì chờ đợi Lương Sơn chỉ có cái chết.”
Phó Kinh Hồng nói liến thoắng một tràng, thấy hơi khô cổ bỏng hầu mới dừng lại, lấy nước ra uống.
Lâm Thanh Tùng chờ gã uống xong, rồi lại hỏi:
“Thế còn con đường thứ hai?”
“Cố thủ một phương, dựa vào địa lợi chống cự. Triều đình đánh nhiều, hao người tốn của, chỉ cần Lương Sơn ngoan cường một lúc, sau lại tỏ ý an phận thì chưa chắc Tống triều đã cần phải nhổ cỏ tận gốc.
“Thế nhưng, đây cũng là con đường mà Tống Giang không muốn, bằng không sẽ phải chịu kết quả ô danh đời đời, ngàn năm sau vẫn bị sử sách chửi là giặc cướp. Đối với những người như Lý Quỳ thì chẳng hề chi, nhưng Tống Công Minh từ nhỏ đọc sách, vào triều làm quan, há lại có thể chấp nhận để tổ tông bêu mặt? Đánh không được, thủ không xong, chỉ có thể cầu hòa. Đây cũng là nguyên do Tống Giang muốn được chiêu an.
“Có người sẽ nói là ngu trung, là không hiểu thế cuộc. Nhưng tất cả những chuyện này, theo Phó mỗ thấy, không thoát được quan hệ với Nho môn các ngài. Nếu như có gì mạo phạm, vẫn mong tiên sinh lượng thứ cho.”
...
Không rõ khi đó Lâm Thanh Tùng đã đáp lời Phó Kinh Hồng ra sao, chỉ biết là từ đấy trở đi, sơn trại ở núi Lệ Chi có thêm một vị quân sư bốc mùi khăm khẳm.