• Màu nền:
  • Font chữ:
  • Chiều cao dòng:
  • Kích Cỡ Chữ:

Spoiler
Hoắc Thành Quân. Hằng Nga vốn không nên ăn linh dược[1]

[1] Truyền thuyết kể rằng, Hằng Nga tò mò mở hộp đựng thuốc trường sinh của chồng là Hậu Nghệ. Khi cho Hậu Nghệ viên thuốc, Tây Vương Mẫu dặn hai vợ chồng mỗi người chỉ uống nửa viên. Sợ bị chồng bắt gặp, Hằng Nga nuốt chửng cả viên thuốc, vì dược tính quá mạnh nên nàng bay lên đến tận cung trăng.


Cỏ dại ở Vân Lâm quán mọc cao hơn đầu gối, Hoắc Thành Quân thường ngồi trên ngưỡng cửa ngẩn người nhìn cỏ dại, tóc tai lúc nào cũng bù xù. Hoạn quan và cung nữ của ả đều đã nhận được mệnh lệnh của Hà Tiểu Thất, vì lợi ích của chính mình, không ai dám tỏ vẻ tôn trọng ả.

Chỉ có Hạ ma ma không ngại tai mắt của bất kỳ ai, cũng hoàn toàn không để ý tới lời cảnh cáo nhẹ nhàng của Hà Tiểu Thất, vẫn đi theo Hoắc Thành Quân đến Chiêu Đài cung, sau đó lại theo ả tới Vân Lâm quán, hết lòng chăm sóc ả. Hà Tiểu Thất tức giận muốn xử lý Hạ ma ma nhưng khi cẩn thận điều tra trước lúc hành động, hắn lại phát hiện Hạ ma ma bề ngoài là người đã cứu Hoắc Thành Quân ra khỏi lãnh cung nhưng thực ra lại là do Hoàng thượng bí mật hạ lệnh. Sau khi sợ đến toát mồ hôi lạnh, hắn vội bỏ ý nghĩ trong đầu.

Nhưng dù có sự chăm sóc của Hạ ma ma, một ngày ba bữa của Hoắc Thành Quân vẫn toàn là rau dại và ngô khoai, có lúc còn ăn bữa trưa không có bữa tối. Hoắc Thành Quân cũng không kén chọn, bất kể thức ăn khó ăn đến mức nào, ả cũng luôn bình tĩnh ăn hết, sau đó lại ngồi ngẩn người trên ngưỡng cửa.

Hạ ma ma định giúp ả búi tóc lên nhưng ả cũng không cần, để mặc mái tóc buông xõa sau lưng.

“Nương nương đang nghĩ gì vậy?”

Hạ ma ma cho rằng ả sẽ không nói như những lần trước đây, không ngờ hôm nay hình như tâm tình của ả khá tốt, lại trả lời: “Ta đang nghĩ tới một số chuyện trước kia.”

Hoắc Thành Quân cúi đầu xem váy áo mình, trên vạt váy có hai lỗ nhỏ. Ngón tay ả chọc vào lỗ thủng rồi rút ra, hình như cảm thấy rất thú vị. Hạ ma ma nhìn mà thương xót, nói nhỏ: “Đây là lần thứ hai ta vào lãnh cung. Lần đầu tiên vào lãnh cung, ta vẫn mong mỏi được ra ngoài đến tận lúc tuyệt vọng. Lần này vào lãnh cung ta lại không muốn ra ngoài. Mặc dù ở đây kham khổ nhưng rất yên tĩnh, thân mặc dù khổ nhưng trong lòng lại không khổ.”

Hoắc Thành Quân nghiêng đầu cười, mái tóc đen buông xuống bên má. Tóc đen da trắng, vẫn là sắc đẹp hiếm có của nhân gian.

“Chiêu Đài cung là nơi tồi tệ nhất trong lãnh cung, nhưng Lưu Tuân lại đày ta đến Vân Lâm quán. Hà Tiểu Thất ngày ngày đến kiểm tra ta sống thế nào, chỉ sợ những người xung quanh hòa nhã với ta, ngươi cảm thấy nơi này có thể yên tĩnh không?”

Hạ ma ma không trả lời được. Hoắc Thành Quân lại bắt đầu ngẩn người nhìn cỏ dại như một pho tượng đất không có sức sống.

Một hoạn quan từ bên ngoài đi vào, Hoắc Thành Quân lập tức như biến thành người khác. Ả đứng bật dậy, đi vài bước lên phía trước, nhìn hoạn quan chằm chằm. Hoạn quan nhìn quanh, ra hiệu cho Hạ ma ma lui ra. Hạ ma ma hành lễ với Hoắc Thành Quân rồi lùi ra ngoài.

Hoạn quan vênh váo nói: “Gần đây trong cung xảy ra không ít chuyện lớn, ta không có thời gian tới đây. Thời gian trước ta đã chuyển lời của ngươi cho Mạnh đại nhân, Mạnh đại nhân chỉ mỉm cười, nghe xong rồi khách khí tạ ơn ta, không nói lời nào đã đi rồi.”

Hoắc Thành Quân ngơ ngác nhìn cỏ dại cao ngang đầu gối. Thất vọng sao? Có lẽ không! Y vẫn là y, vẫn lạnh lùng, nhẫn tâm như cũ, keo kiệt ban phát từng chút xót thương của mình.

Hoạn quan hắng giọng mấy tiếng, chậm rãi nói: “Ta có một tin tức rất lớn về Mạnh đại nhân.”

Hoắc Thành Quân ngẩn ra một lát mới hiểu được ý của hoạn quan. “Trên người ta đã không còn đồ trang sức gì nữa. Cây trâm ngọc lần trước cho ngươi đã là món đồ cuối cùng của ta. A! Đúng rồi, bên kia còn treo một chiếc đèn lồng rất tinh xảo, chắc là có thể bán được mấy đồng.”

Đèn lồng? Hoạn quan “hừ” lạnh một tiếng, thiếu kiên nhẫn xoay người đi, vừa đi vừa thuận miệng nói: “Mạnh Giác đã chết, Tiêu Vọng Chi thay thế hắn làm thái tử thái phó.”

Thân thể Hoắc Thành Quân run lên, đưa tay túm cánh tay hoạn quan. “Ngươi nói cái gì? Không thể như vậy được.”

Hoạn quan không hề khách khí đẩy Hoắc Thành Quân ra, phủi tay áo mình như phủi đi sự xui xẻo. “Nhà họ Hoắc một tay che trời cũng có thể chết hết, Mạnh Giác tại sao lại không thể chết? Có điều…”

Vẻ mặt rất hoang mang, hắn vừa đi ra ngoài vừa lẩm bẩm: “Rốt cuộc là chuyện gì thì ta cũng thật sự không rõ. Hoàng thượng tuyên chỉ gia phong Tiêu Vọng Chi làm thái phó, đau lòng nói với bá quan rằng Mạnh Giác là người dị tộc, mặc dù hoàng ân rất dày nhưng vẫn mang dị tâm, không ngờ lại bí mật qua lại với người Khương. Sau khi chuyện bại lộ, Mạnh Giác đã chạy ra khỏi Trường An. Nhưng hoạn quan trong cung lại rì rầm hắn đã bị vạn tiễn xuyên tâm, chết từ lâu rồi.”

Hoắc Thành Quân ngơ ngác ngồi giữa đám cỏ dại lạnh lẽo, trời chiều xa xa như máu, cánh chim nhạn cô độc cất tiếng hót thê lương, mọi thứ trước mắt ả trở nên mơ hồ không rõ. Lưu Tuân làm sao có thể để y sống được? Ả nên nghĩ đến điều này từ sớm. Nhưng vì sao Lưu Tuân mãi chưa giết ả? Những sự giận dữ và oán hận của Lưu Tuân đối với ả không thể giải tỏa được bằng cái chết, có lẽ ả ngày ngày bị hành hạ mới có thể khiến y tạm hài lòng.

Ả đứng lên, đi vào trong điện. Váy áo trắng một màu, tóc dài buông rũ, trên gương mặt trắng xanh chỉ có sự bình tĩnh, thờ ơ như nhìn thấu hết thảy.

Gió mát hiu hiu, chiếc đèn cung đình bát giác buông chùm tơ thuận theo gió lay động bên cửa sổ. Một bức tranh rất sống động thoáng qua trước mắt ả, đó là cảnh Hằng Nga sống một mình trong Quảng Hàn cung lạnh lẽo thê lương, lén nhìn xuống nhân gian rơi lệ

Ả cười mơ hồ. Phụ thân, con gái sai rồi! Cho dù xuống suối vàng cũng không có mặt mũi nào gặp phụ thân!

Ả lấy một dải lụa, đứng lên ghế, vung tay ném một đầu dải lụa qua xà nhà.

Nắng chiều chiếu xiên vào cung điện lạnh lẽo, tất cả mọi thứ trong điện đều được phủ một lớp ánh sáng màu cam.

Gió chợt mạnh hơn, cánh cửa sổ bị gió thổi không ngừng đập vào khung cửa rầm rầm. Chiếc đèn lồng bị thổi bay xuống đất, lăn tròn trên mặt đất mấy vòng rồi dừng lại bên cạnh một chiếc ghế đổ.

***

Thượng Quan Tiểu Muội. Một mình đến hết cuộc đời.

Khi Chanh Nhi chải tóc cho Thượng Quan Tiểu Muội, Thượng Quan Tiểu Muội nhìn thấy một lọn tóc bạc trong gương. Nàng ta nhẹ nhàng cầm lọn tóc bạc đó lên, khẽ vân vê trên đầu ngón tay.

Chanh Nhi đau lòng muốn khóc. Kỳ thực nương nương không hề già, tuổi tác không chênh lệch bao nhiêu so với các phi tử trong cung.

Nhưng nương nương…

Lục Thuận tiến vào bẩm tấu, nói các vị nương nương đến vấn an Tiểu Muội. Tiểu Muội khẽ phất tay. Lục Thuận xoay người ra ngoài, không cần nói lý do gì mà trực tiếp lệnh cho các vị nương nương đi về hết. Tiểu Muội cười nghĩ, Lục Thuận cũng già rồi, khi nói năng đã không còn sự nhiệt tình, cởi mở như trước kia.

Vì có sự tôn kính của Hoàng đế, sự hiếu thảo của Thái tử, địa vị của Tiểu Muội trong hậu cung là không thể lay động. Bất kể là phi tử được sủng ái hay là không được sủng ái đều được Tiểu Muội ủng hộ, nhưng người thật sự có thể nhìn thấy Tiểu Muội lại rất ít. Có phi tử đến tận lúc sinh hoàng tử cũng không biết Thái hoàng thái hậu mặt mũi thế nào. “Bà già trong Trường Lạc cung” dần trở thành truyền thuyết được thì thầm với nhau trong đêm đen ở Vị Ương cung. Có người nói Tiểu Muội thân thể có tật, cho nên dù tiên đế không có phi tần, chỉ sủng ái Hoàng Hậu, Hoàng hậu vẫn không thể sinh con được. Còn có người nói phế hậu Hoắc Thành Quân cũng như vậy, chỉ sợ là vấn đề trong dòng máu của nhà họ Hoắc. Có người nói Tiểu Muội là thạch nữ, không thể đón nhận mưa móc của đế vương. Có người nói thực ra Tiểu Muội vẫn là xử nữ, năm đó tiên hoàng có một nữ nhân bí ẩn, chỉ có điều sợ Thượng Quan Kiệt và Hoắc Quang nên không dám lập nữ nhân đó làm phi tử. Có người nói Tiểu Muội hèn nhát, gặp chuyện gì cũng chỉ biết khóc lóc vâng dạ. Có người nói Tiểu Muội lãnh đạm vô tình, người trong gia tộc đã chết hết, lại chưa từng rơi một giọt nước mắt…

Lúc nghe thấy những tin đồn này, Tiểu Muội luôn muốn cười. Thời gian là thứ đáng sợ đến mức nào? Nó làm mái tóc đen thiếu nữ chuyển thành tóc trắng, sống lưng thẳng tắp của nam nhân còng xuống, khiến tất cả mọi thứ trở nên sai lệch, biến dạng, nhưng thời gian không xóa nhòa được trí nhớ của Tiểu Muội. Trong những năm tháng tĩnh mịch và lâu dài ở Trường Lạc cung. Tiểu Muội có thể chậm rãi hồi tưởng.

Lần đầu tiên bước vào Vị Ương cung, Tiểu Muội mới chỉ sáu tuổi. Còn nhớ chiếc mũ phượng nặng nề trên đầu khiến bước chân nàng ta cũng loạng choạng. Khắp nơi tiếng đàn ca sáo nhị hết sức vui vẻ, nhưng Tiểu Muội lại hoảng sợ chỉ muốn khóc, hy vọng sau khi hết thảy kết thúc, mẹ sẽ mau chóng tới đón mình về. Tiểu Muội nghe thấy mọi người cao giọng gọi Hoàng thượng, nhưng nàng ta vẫn không nhìn thấy có người tới. Nàng ta không kìm được lén vén chiếc khăn phượng đỏ phủ trên đầu lên nhìn quanh tìm Hoàng thượng, chỉ nhìn thấy một bóng dáng ẩn nhẫn đau thương. Tiểu Muội ngẩn ngơ, vội vã buông khăn phượng xuống như đã làm sai chuyện gì, giấu sự thấp thỏm lo âu dưới chiếc mũ phượng. Trong tiếng ngâm xướng của người chủ hôn, Tiểu Muội vừa vụng về khấu đầu thi lễ vừa nghĩ lại những lời mẹ đã nói.

“Mẹ, hoàng hậu là cái gì?”

Mẹ đẩy xích đu, đẩy Tiểu Muội lên cao, Tiểu Muội cười vui vẻ. Trong tiếng cười của chính mình, Tiểu Muội nghe thấy mẹ nói: “Hoàng hậu chính là thê tử của hoàng đế, hoàng đế chính là phu quân của hoàng hậu.”

“Thế thê tử là cái gì?”

“Thê tử chính là người phải sống cùng phu quân cả đời.”

“Phu quân là cái gì?”

“Phu quân chính là người phải sống cùng thê tử cả đời.”

Tiểu Muội không vui. “Vậy nghĩa là con phải sống cả đời với hoàng đế? Thế thì không được. Mẹ, con phải sống cả đời với mẹ.”

Mẹ yên lặng hồi lâu, chỉ đẩy xích đu cho Tiểu Muội. Tiểu Muội quay lại nhìn, nhìn thấy trong mắt mẹ như có nước mắt.

Tiểu Muội suy nghĩ dưới chiếc mũ phượng, chính là người này sẽ sống với mình cả đời sao? Hình như huynh ấy không vui! Nhưng mình cũng không vui, mình muốn về nhà!

Mẹ vẫn chưa tới đón Tiểu Muội về nhà, một mình Tiểu Muội ở lại Tiêu Phòng điện.

Bảy tuổi, trên đài Thần Minh, lần đầu tiên chàng bế Tiểu Muội lên, cùng Tiểu Muội tìm kiếm nhà cha mẹ. Tiểu Muội tựa vào lòng chàng, vừa cố gắng tìm nhà cha mẹ vừa suy nghĩ mông lung. Mẹ nói huynh ấy sẽ sống với mình cả đời? Sống cùng nhau cả đời…

Chàng yên lặng không nói câu nào, chỉ lẳng lặng ôm Tiểu Muội, nhưng dường như sự sợ hãi của Tiểu Muội đã vơi bớt.

Sau đó Tiểu Muội phát hiện chàng rất thích đến đài Thần Minh, chỉ có điều hướng nhìn của chàng là hướng tây, còn hướng nhìn của Tiểu Muội là hướng bắc. Thỉnh thoảng gặp chàng, chàng vẫn bế Tiểu Muội lên để Tiểu Muội nhìn về phía bắc. Mặc dù cả hai người đều biết, bất kể phía tây hay phía bắc thực ra đều không nhìn thấy gì cả.

Năm tám tuổi, lần đầu tiên Tiểu Muội nghe thấy cung nhân hát: “Hoàng hạc bay về đậu Kiến Chương, lông óng mượt đôi cánh mang hương, như áo vàng bên nhành hoa cúc. Sen hạnh lay động, lau sậy đong đưa, thân hình nhỏ nhắn, điềm lành đi theo.”

Cung nữ bên cạnh nói với Tiểu Muội, đây là bài thơ Hoàng đế làm theo lời mời của đại thần. Tiểu Muội không hiểu hết ý thơ nhưng Tiểu Muội biết bài hát này không phải hát về điềm lành gì mà là về chính bản thân Hoàng đế. Bởi vì Tiểu Muội cũng từng vô số lần đứng bên bờ hồ Thái Dịch nhìn những cánh chim tự do tự tại, mơ mộng mình là một cánh chim để có thể tự do bay ra khỏi Vị Ương cung. Trong tiếng hát của cung nữ, Tiểu Muội đột nhiên hiểu được sự thương hại ẩn sâu trong mắt chàng. Thì ra chàng hiểu mình, mặc dù chàng lạnh lùng xa cách nhưng chàng vẫn hiểu rõ hết thảy lòng mình.

Tiểu Muội từ từ lớn lên, chàng lại ngày càng lạnh lùng với Tiểu Muội. Thỉnh thoảng Tiểu Muội tình cờ gặp chàng trên đài Thần Minh, nhưng lúc nhìn thấy Tiểu Muội, chàng sẽ lập tức xoay người rời đi. Bóng lưng hờ hững của chàng mang sự uể oải không che giấu được. Tiểu Muội biết đài Thần Minh là khoảng trời đất duy nhất thuộc về chàng trong cả Vị Ương cung. Bởi vì hiểu được, cho nên dừng lại. Tiểu Muội không còn đến đài Thần Minh nữa, chỉ tản bộ xa xa trong những đêm có sao, lặng lẽ lắng nghe tiếng tiêu xa xăm quanh quẩn giữa những cột vàng trụ ngọc…

Làm sao nàng ta có thể rời khỏi nơi này?

Tất cả những vui vẻ và những ký ức một đời của Tiểu Muội đều ở chỗ này, cha mẹ, huynh đệ, người thân trong gia tộc cũng đều ở trong tòa thành này. Tiết Thanh minh, Tiểu Muội sẽ đến tế bái cha mẹ trước, sau đó đi tế bái tổ phụ, ngoại tổ phụ, các thúc thúc, bá bá… Tiểu Muội đốt con ngựa tự tay vẽ trước mộ tiểu đệ, cũng đốt hoa lụa trước mộ Thượng Quan Lan cô cô, đốt khăn voan trước mộ dì Hoắc Thành Quân…

Quan trọng hơn là nơi này có chàng. Tiểu Muội có thể ngồi một ngày trên đài Thần Minh, có thể đến hồ Thái Dịch xem hoàng hạc, còn có thể đến Bình Lăng ngắm mặt trời mọc… Trong tòa cung điện này, bóng dáng chàng có ở khắp nơi. Hơn nữa những ký ức này chỉ thuộc về nàng ta, cho dù nữ nhân tóc xanh như mây, miệng cười như ca đó cũng vĩnh viễn không thể có được. Nếu có một người ở bên cạnh là một loại hạnh phúc, vậy thì nàng ta có ký ức về một người cũng là hạnh phúc.

“Nương nương?” Chanh Nhi lo lắng gọi, nương nương lại mơ màng nữa rồi.

Tiểu Muội cười áy náy, phất tay cho Chanh Nhi ra ngoài, vô thức bỏ lọn tóc bạc giữa hai ngón tay xuống, đứng dậy đi tới bên cửa sổ. Tiểu Muội mở cửa sổ ra, một đàn chim nhạn xếp thành hình chữ “nhất” trên trời xanh bay về phương Nam. Nơi những cánh chim đó bay đến là nơi như thế nào? Chắc chắn bây giờ Hoàng đế đại ca đã biết được. Đại ca, muội biết cuối cùng huynh đã được tự do, huynh đã cùng với nữ nhân như vân như ca đó bay ra ngoài. Nàng ta sẽ đi khắp trăm núi ngàn sông, làm hết những việc huynh muốn làm. Nhưng Hoàng đế đại ca của muội lại vẫn ở khắp nơi trong tòa cung điện này, ở bên bờ hồ Thái Dịch, ở trên đài Thần Minh, trên hành lang cung điện. Dường như chỉ cần một chớp mắt sau sẽ nhìn thấy huynh từ từ đi về phía muội. Đêm khuya, chỉ cần muội lắng tai nghe, vẫn có thể nghe thấy tiếng tiêu của huynh văng vẳng.

Ý chỉ huynh cho muội, e là vĩnh viễn muội không dùng đến. Muội biết trời đất bên ngoài rộng lớn, nhưng trời đất có rộng lớn hơn nữa mà không còn bóng dáng huynh thì cũng có liên quan gì tới muội? Những đóa hoa đó rực rỡ đến mấy, những cây cối đó đẹp đẽ đến mấy cũng không phải thứ muội muốn. Muội chỉ muốn ở lại nơi này, gìn giữ những ký ức của huynh và muội, một mình đến hết cuộc đời.

Lời cuối sách

Cuối thời Hán Vũ Đế, do chinh chiến liên miên, khoảng cách giàu nghèo nới rộng cộng thêm luật lệ hà khắc khiến mâu thuẫn xã hội ngày càng quyết liệt, tình trạng chiếm đất rất nghiêm trọng, cuộc sống của người dân khốn đốn, khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi. Đối mặt với sự phẫn nộ của người dân, để tránh vết xe đổ của nhà Tần bị mất nước vì khởi nghĩa của dân nghèo, Hán Vũ Đế hạ chiếu chỉ trách tội chính mình để tỏ lòng hối hận vì những việc mình đã làm.

Sau khi Hán Vũ Đế chết, Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng tám tuổi lên ngôi, thông minh cơ trí, hành sự quyết đoán, mấy lần hạ chiếu cứu tế dân nghèo, giảm miễn thuế ruộng, thuế đinh. Trong mười ba năm ngắn ngủi, thuế má đã giảm bớt hai phần ba. Đồng thời Chiêu Đế còn giảm hình phạt, xá thiên hạ, phổ biến lấy nhân trị quốc. Trong thời gian Chiêu Đế cầm quyền, trăm họ an cư lạc nghiệp, quốc khố bắt đầu sung túc, nhà Hán bắt đầu xuất hiện cục diện trung hưng ổn định

Năm Nguyên Bình nguyên niên (năm 74 trước công nguyên), sách sử ghi lại rằng Chiêu Đế từ nhỏ thân thể khỏe mạnh, thông tuệ, hiếu động lại mắc bạo bệnh mà chết khi mới hai mươi mốt tuổi (có sách sử ghi là hai mươi hai tuổi). Trong suốt cuộc đời, Lưu Phất Lăng không có phi tần, không có cung nữ được sủng hạnh, cũng không có con nối dõi, chỉ có một hoàng hậu họ Thượng Quan ít hơn Lưu Phất Lăng sáu hoặc bảy tuổi. Sau khi chết, Lưu Phất Lăng được an táng tại Bình Lăng.

Sau khi Chiêu Đế băng hà, cháu của Chiêu Đế là Xương Ấp Vương Lưu Hạ được Hoắc Quang lập làm hoàng đế. Trong hai mươi bảy ngày tại vị, Lưu Hạ đã làm một ngàn một trăm hai mươi bảy chuyện hoang đường, trung bình mỗi ngày bốn mươi chuyện. Nghĩa là cho dù không ăn không ngủ, gần như cứ nửa tiếng Lưu Hạ lại phải làm một chuyện xấu. Hoắc Quang lấy lý do này phế Lưu Hạ lập Lưu Tuân. Từ đó một hoàng đế truyền kỳ khác – Lưu Tuân – đã bước lên vũ đài lịch sử.

Bởi vì lớn lên trong dân gian, Lưu Tuân biết rõ những khó khăn của dân gian. Ông nắm chắc tâm tư nguyện vọng của bách tính, nghiêm khắc trói buộc quan lại, giết chết không ít tham quan quyền cao chức trọng. Ông còn nhiều lần đặc xá thuế má, chiêu an lưu dân, giảm nhẹ hình phạt. Trong những vấn đề quốc sách trọng đại như sản xuất nông nghiệp, Lưu Tuân tiếp tục dùng chủ trương của Hoắc Quang, giúp dân giàu nước mạnh. Còn trong chính sách đối với các nước láng giềng, Lưu Tuân áp dụng vừa đấm vừa xoa, hợp tung liên hoành, tiêu diệt từng bộ phận. Năm Thần Tước thứ hai (năm 60 trước công nguyên), Lưu Tuân phái đại quân tấn công Khương tộc, các bộ lạc Khương tộc liên hợp lại và mượn binh Hung Nô, do có ưu thế về địa lợi nên đã giành thế thượng phong. Trong lúc tình hình quân binh nhà Hán nguy cấp, Khương tộc xảy ra nội loạn mà không rõ tại sao, những thủ lĩnh chủ chiến như Dương Ngọc, Miêu Phi bị giết, Khương tộc đại loạn, cuối cùng đầu hàng nhà Hán. Các nước Tây Vực như Ô Tôn, Xa Sư, Khâu Từ tới tấp quy thuận. Năm Cam Lộ thứ ba (năm 51 trước công nguyên), Thiền vu Hô Hàn Tà của nam Hung Nô đích thân tới quan ải Ngũ Nguyên xin được vào Đại Hán xưng thần, nam Hung Nô trở thành phiên thuộc của nhà Hán. Hộ tống Thiền vu Hô Hàn Ta quy thuận nhà Hán còn có hậu nhân của Lý Lăng, người đã phản bội nhà Hán quy thuận Hung Nô trong thời Hán Vũ Đế (Lý Lăng là cháu của Phi Tướng quân Lý Quảng). Đến lúc này, Tuyên Đế Lưu Tuân đã hoàn thành mục tiêu mà Vũ Đế Lưu Triệt đã phấn đầu cả đời, dốc hết sức lực vẫn chưa hoàn thành. Bốn di thần phục, thiên hạ quy thuận.

Tuyên Đế Lưu Tuân có ba vị hoàng hậu: Hứa Bình Quân, Hoắc Thành Quân và Vương Hoàng hậu sách sử không ghi lại tên. Sử sách ghi lại, Hứa Bình Quân và Lưu Tuân tình cảm sâu nặng, có điển cố “kiếm cũ tình thâm”, chết vì rong huyết hậu sản, nhưng sau khi Hoắc Quang chết lại điều tra ra được là Hứa Bình Quân trúng độc mà chết. Hoàng hậu thứ hai Hoắc Thành Quân là con út của Đại tướng quân Hoắc Quang. Khi Hoắc Quang còn sống, Hoắc Thành Quân và Lưu Tuân ân ân ái ái, gần như độc sủng nhưng vẫn không thể có thai. Sau khi Hoắc Quang chết, Hoắc Thành Quân bị phế, Lưu Tuân lệnh cho Hoắc Thành Quân chuyển đến Chiêu Đài cung nhưng vẫn không hài lòng, lại lệnh cho Hoắc Thành Quân chuyển đến Vân Lâm quán hoang vu hơn nữa. Hoắc Thành Quân không chịu nổi nhục nhã, tự sát mà chết. Còn hoàng hậu thứ ba họ Vương, thay vì nói là vợ của Lưu Tuân, chẳng thà nói là bà vú của Thái tử Lưu Thích, lại chưa hề gần gũi với bà ta. Đương nhiên bà ta không có con, cho nên trong đời mình, Tuyên Đế chỉ có một đích hoàng tử Lưu Thích. Theo chế độ kế thừa ngai vàng của Trung Quốc, điều này cũng có nghĩa trừ khi Lưu Thích chết, nếu không các hoàng tử khác đều không có tư cách kế vị. Nhưng mâu thuẫn chính là dù Lưu Tuân hết sức coi trọng Lưu Thích nhưng quan hệ cha con lại không hề hòa hợp. Sách sử ghi lại, Lưu Thích “nhân từ thích nho” (Trong Vân trung ca, Lưu Thích được Thái phó Mạnh Giác tận lực dẫn dắt, quen đọc điển tích nho gia, tôn trọng nho thuật. Hơn nữa chịu ảnh hưởng của mẹ là Hứa Bình Quân nên bản tính mới nhân từ), còn Lưu Tuân lại tôn sùng đế vương dùng bá quyền trị quốc, cho nên gần như trong mọi chuyện, ý kiến của Lưu Thích và Lưu Tuân đều không hợp nhau. Lưu Tuân mấy lần giận dữ, thậm chí có những lời trách mắng được cả các vị quan chép sử quý chữ như ngọc chép vào sử sách, nhưng Lưu Tuân vẫn truyền ngôi cho Lưu Thích.

Tuyên Đế Lưu Tuân đối xử rất hậu với tôn thất, lại chỉ không thích Xương Ấp Vương Lưu Hạ, nhiều lần hạ chỉ trách cứ những cử chỉ, nói năng của Lưu Hạ, thậm chí cuối cùng còn hạ chỉ giáng Lưu Hạ làm Hải Hôn hầu. Xương Ấp Vương Lưu Hạ nhẫn nhục chịu đựng, không hề phản kháng, cũng kính cẩn nhận phong hiệu Hải Hôn hầu. Theo sách sử ghi lại, Lưu Hạ thích đi săn, thân thể khỏe mạnh, cuối cùng lại chết mà không có bệnh tật gì khi mới hơn ba mươi tuổi. Còn Quảng Lăng Vương Lưu Tư thì hoàn toàn ngược lại, căn cứ sử sách ghi lại, Tuyên Đế cực kỳ hậu đãi Quảng Lăng Vương Lưu Tư, nhưng Lưu Tư vẫn bất mãn với Hoàng đế, không ngờ còn làm điều đại nghịch là mời bà mo nguyền rủa Tuyên Đế chết sớm. Sau khi chuyện bị bại lộ, Lưu Tư sợ tội tự sát. Sau khi Lưu Tư chết, Lưu Tuân xóa bỏ nước Quảng Lăng, không cho con cháu Lưu Tư kế thừa đất phong. Đến tận sau khi Nguyên Đế Lưu Thích lên ngôi mới phong lại Thế tử Lưu Bá của Lưu Tư làm Quảng Lăng Vương, trả lại đất phong để thờ tự Lưu Tư.

Năm Hoàng Long nguyên niên (năm 49 trước công nguyên), Tuyên Đế Lưu Tuân qua đời, hưởng thọ bốn mươi bốn tuổi, táng tại Đỗ Lăng.

Trong lúc Tuyên Đế cầm quyền, quan lại thanh liêm, dân cư yên ổn. Sách sử đánh giá thời kỳ này là thời kỳ vũ lực hùng mạnh nhất, kinh tế phồn vinh nhất trong lịch sử nhà Hán. Nhưng công tích của Tuyên Đế không thể rời được công tích Chiêu Đế đã lập ra trước đó, cho nên giai đoạn Chiêu Đế Lưu Phất Lăng và Tuyên Đế Lưu Tuân cai quản được gọi chung là “Chiêu Tuyên trung hưng”.

Nhưng phía sau sự phục hưng của Tuyên Đế lại là mầm họa nặng nề. Bởi vì Tuyên Đế trọng dụng hoạn quan, Nguyên Đế Lưu Thích lại càng sủng ái hoạn quan, hết sức tín nhiệm, vì thế sau đó mới xảy ra thảm kịch trọng thần bị hoạn quan đánh chết. Tất cả những chuyện này đã chôn xuống mầm họa hoạn quan can thiệp triều chính sau này, mà hoạn quan can thiệp triều chính lại trực tiếp dẫn đến đấu tranh phe phái trong triều đình, làm nhiễu loạn việc triều chính, cuối cùng nhà Hán diệt vong vì hoạn quan làm loạn chính sự. Có thể nói mọi sự đều do Lưu Tuân tự tay chôn xuống mầm họa này.

Hết

Danh Sách Chương:

Bạn đang đọc truyện trên website TruyenOnl.COM
BÌNH LUẬN THÀNH VIÊN
BÌNH LUẬN FACEBOOK
Chương trước
Chương trước
Chương sau
Chương sau
Về đầu trang
Về đầu trang