Cô thành nhìn xa Ngọc Môn quan.”
Mắt nhắm tịt, bọn họ mấy ngày hôm nay đều phải chụi cảnh bão cát, làm cho hai mươi mấy binh sĩ bị cát bụi bao phủ mà chết, gã mạnh mẽ quất roi vào ngựa của mình hô to:
- Truyền lệnh tam quân, tăng tốc hành quân!.
Không cần gã hạ lệnh, năm nghìn kỵ binh đều quật chiến mã, ra sức chạy gấp, trên một đại sa mạc mênh mông mịt mù, năm nghìn kỵ binh này trước thiên nhiên trở nên thật nhỏ bé, họ đi được hơn hai mươi dặm, sắc trời đen như mặc, lát sau lại rung chuyển trời đất, cát bụi lại hướng về phía người họ. Biển Bồ Xương chính là hồ La Bố ngày nay. Tại triều Tùy, nơi này vẫn là một mặt nước mênh mông, trên hồ bèo mọc um tùm. Đây cũng là nơi đoàn thương nhân niềm nam dừng chân, khi trải qua sa mạt mịt mù cùng biển cát, những con người mỏi mệt giờ được gặp mặt nước mênh mông. Trên đầu hải âu kêu to, như ngọn bèo xanh biếc nhẹ bay trước gió, tẩy đi hết mệt nhọc, chuẩn bị tinh thần tiếp tục hành trình.
Năm nghìn quân Tùy bị tổn thất nặng nề, trả giả tổn thất đến hơn trăm người, rốt cuộc thoát ra khỏi cơn bão cát, đến được nơi đây khiến ai nấy vui vẻ với cảnh biển xanh lam.
Bọn lính đều nhảy xuống ngựa, la lớn chạy về phía hồ nước, những con ngựa cũng trở nên vô cùng hưng phấn chạy như bay, nước ở đây chỉ xanh một màu. Năm nghìn binh sĩ cùng ngựa như hòa tan trong nước. Các binh sĩ nghỉ ngơi tại biển Bồ Xương hai ngày, rồi lại hành quân theo hướng nam. Đoạn đường này các quân sĩ thoải mái hơn nhiều, sông Thả Mạt bắt nguồn từ Côn Luân sơn, chảy qua quận Thả Mạt và quận Thiện Thiện, cuối cùng chảy vào biển Bồ Xương.
Mùa xuân vừa đi qua, nước sông chảy róc rách, sông rất cạn, chỗ sâu nhất chỉ đến phần eo, nước sông lạnh mà trong, dòng nước chảy xiết, hai bên bờ sông là cánh rừng Hồ Dương rậm rạp, kéo dài đến trăm dặm, chúng được nước sông làm cho tươi tốt, trở nên cực kì to lớn.
Lại đi tiếp thêm ba ngày nữa, các binh sĩ dừng lại nghỉ trong rừng Hồ Dương, từ đây tới thành Thiện Thiện không còn bao xa, ước chừng chỉ hơn ba mươi dặm.
Thành Thiện Thiện cũng không sát sông Thả Mạt cho lắm, nó còn cách sông Thả Mạt một bãi sa mạc rộng chừng ba mươi dặm, lúc này năm nghìn quân Tùy đang ở phía Tây Bắc của sa mạc, đi hết sa mạc này là có thể đến thành Thiện Thiện.
Màn đêm buông xuống, trời đây sao, tỏa ánh sáng rực rỡ, Tô Định Phương đứng trên một gò đất, dừng ở phương xa. Trải qua gần hai mươi ngày bôn ba, gã thực sự không biết chút gì về cái thành Thiện Thiện này cả.
Gã chỉ biết là Nguyên Hoằng Tự chiếm quận Thả Mạt cùng Thiện Thiện, theo như đoàn thương nhân nói vậy, quân đội thì khoảng năm sáu ngàn quân, còn về cách đóng quân, trang bị như thế nào, có bao nhiêu kỵ binh, bao nhiêu bộ binh, gã hoàn toàn không biết gì cả.
Tô Định Phương thở dài, việc này không phù hợp với phương thức tác chiến của quân Tùy, thế nhưng gã không muốn rút dây động rừng, gã liền nghĩ đến phương án đầu tiên chiếm thành Thiện Thiện này, sau rồi tùy cơ ứng biến.
- Đem người dẫn đường tới!.
Lát sau, vài tên binh sĩ dẫn người đó vào, đó là một lão già sáu mươi tuổi, người Cao Xương, tên là Tô A. Theo cách nói của Tô Định Phương, năm trăm năm trước bọn họ là người một nhà, lão già Tô A này đã từng là thương nhân, nên có thể nói lưu loát tiếng Hán. Sau năm bốn mươi tuổi, lão sống bằng nghề chăn thả ở biển Bồ Xương, hàng năm đều phải đến thành Thiện Thiện để bán cừu, nên thuộc làu mọi ngóc ngách của cái thành này.
- Tô tướng quân, trời đã tối rồi, đến lúc hành động chưa?
Tô A lại cười nói.
Tô Định Phương cười gật đầu:
- Ta nghĩ nên hỏi trước về tường thành của thành Thiện Thiện này.
- Tô tướng quân, thành này tuy được gọi là đệ nhất đại thành ở phía nam, nhưng thực tế so với thành trong đất Tùy thì không đáng kể đến, tường thành rất thấp, đại khái chỉ cao một trượng ba! Chủ yếu dùng để phòng sói, hơn nữa lại là tường đất, không xây bằng đá, bên kia có vài ốc đảo, dân cư phân bố rộng rãi, trong thành ngược lại không có mấy người, cũng chỉ có ngàn hộ. Vốn dĩ thành cũng không lớn, trải qua mấy trăm năm lịch sử, thành đã trở nên cũ nát từ lâu.
Tô Định Phương chăm chú nghe, hỏi:
- Cạnh đó có các trạm canh gác hay phong toại (nơi người ta đốt lửa làm hiệu) nào không?.
Tô A ha hả cười:
- Có phong toại nhưng cũng chỉ vài tòa, mà chỉ toàn phong toại của triều Hán, từ lâu đã thành gò đất. Nơi này người ta rất ít khi nghĩ đến chuyện bị địch tập kích, trừ tộc Thổ Cốc Hồn. Từ lúc tộc này bị hoàng đế triều Tùy đánh cho hoang tàn, thì không còn tới đây nữa, nhưng nếu ngươi tập kích ban đêm, quân canh giữ có khi lại nhầm các người là bầy sói.
- Bọn họ trang bị vũ khí như thế nào?
- Không khác quân Tùy mấy, chúng ban đầu cũng là quân Tùy cả, nếu như các ngươi đánh xen lẫn với chúng, không chừng còn không thể phân biệt được địch ta, nhưng mà, hình như mũ sắt của các người có điểm khác biệt.
Tô Định Phương trầm tư suy nghĩ một lát, liền khom lưng chắp tay nói:
- Đa tạ lão lão.
Lúc đó, vài lính đi thám thính từ xa chạy tới, Tô Định Phương vui mừng, thúc ngựa ra nghênh đón hỏi:
- Thế nào? Phát hiện được gì không?.
- Bẩm tướng quân, quân địch không phải toàn bộ đều đóng ở trong thành, hơn một nửa đóng quân ở ngoài thành, hình như là đang chuẩn bị cho ngày mai xuất phát, có rất nhiều khí giới vật tư được gói gém cẩn thận.
- Xung quanh doanh trại có hàng rào hay thứ gì khác không?.
- Không có, phía trong là mấy trăm lều vải, chung quanh chỉ có một vòng xe quân nhu bao vây quanh doanh trại.
Tô Định Phương tuy biết đây là bởi vì không có nhiều trường mâu làm hàng rào, nhưng gã rất cẩn thận, Nguyên Hoằng Tự dù sao cũng đã nhiều năm làm tổng quản U Châu, có nhiều kinh nghiệm, nên gã không thể dù chỉ là một chút sơ suất. Tô Định Phương ngẩng đầu nhìn trời đêm, quay đầu lại nói với mấy tên thân binh nói:
- Đi thông báo với Lý tướng quân, cho các huynh đệ nghỉ ngơi một thời gian nữa rồi mới xuất binh...
Đêm dần về khuya, trong lều lớn, Nguyên Hoằng Tự vẫn thức. Ông ta đang chắp tay sau lưng đi đi lại lại trong lều của mình, lo lắng về sách lược kế tiếp, bước đầu tiên là cướp quận Y Ngô, ông ta không lo lắng chuyện này, bước thứ hai là cướp quận Đôn Hoàng, sau đó rồi bước thứ ba, thứ tư...
Nguyên Hoằng Tự nay đã gần sáu mươi, tóc đã bạc gần nửa, mặt mũi bị bão cát làm cho thô ráp, nhưng thân thể vẫn thẳng tắp như hồi trẻ. Ông ta có đôi mắt sáng, lợi hại như chim ưng vậy, còn dã tâm ông ta thì vẫn còn y nguyên như năm mươi năm trước, ông ta giờ vẫn đầy rẫy dã tâm.
Trên bàn soái của ông ta có một tấm địa đồ, bản đồ Hà Tây lúc này đã biến thành một màu đỏ, đó chính là chỗ dã tâm của ông ta, dùng hai năm để chiếm lĩnh Hà Tây, sau đó là Lũng Hữu, rồi tiến quân đến Quan Trung, thực hiện kế hoạch mà Nguyên gia từng thất bại, thành lập một triều đại mới, vương triều Ngụy, đuổi triều Đường, tiêu diệt Dương Nguyên Khánh, tranh giành Trung Nguyên, khôi phục lại sự huy hoàng của dòng họ Thác Bạt.
Ngày mai là ngày ông ta khởi binh, cái ngày này ông ta đã đợi từ lâu, ông ta phấn khích đến nỗi nó sẽ theo ông ta vào giấc ngủ.
Lúc đó, ngoài lều có một gã binh sĩ bẩm báo:
- Khởi bẩm Vương gia, trên vùng sa mạc này hình như có một bầy sói lui tới, có vài huynh đệ nghe được tiếng sói tru.
Gần doanh trai xuất hiện một bầy sói, đó như là chuyện cơm bữa, Nguyên Hoằng Tự sớm đã thành thói quen, ông ta biết rõ, mùi của đàn ngựa đã thu hút bầy sói, liền phất tay:
- Đuổi chục con ngựa ra ngoài.
Đây là một cách để đối phó với bầy sói, dùng lạc đà hay ngựa để dẫn chúng đi xa, bầy sói thường thường phải đuổi theo đến trăm dặm mới có khả năng giết chết chúng, nhưng rất khó để quay lại đây.
Binh sĩ tuân lệnh, xoay người lại, Nguyên Hoằng Tự thì chậm rãi cầm chiếc đao, nhìn lưỡi đao sắc bén, mạnh tay phất đao hướng Đông... Lúc này quân Tùy chỉ còn cách lều địch vài dặm, liên tiếp không ngừng có những binh sĩ tru lên giả tiếng sói, đây là cách Tô A đã chỉ cho gã, vào ban đêm với khoảng cách vài dặm, đối phương có thể thấy bọn họ, nhưng lại khó phân biệt một bầy ngựa với một bầy sói.
Lúc này trong doanh trại đã cho lao ra chục con ngựa, hăng hái chạy theo hướng nam, Tô A cười cười nói với Tô Định Phương:
- Bọn họ tưởng các ngươi là bầy sói rồi, còn cho phóng ngựa hấp hẫn để các ngươi truy đuổi.
Tô Định Phương thúc ngựa hướng về doanh trại quân địch, gã cũng có khá nhiều kinh nghiệm, trước lúc địch phát động tiếng chuông cảnh báo, gã sẽ không cho phát động công kích.
Đội quân Tùy tiến lại ngày càng gần, chỉ cách doanh trại dịch gần ba dặm, lúc này, quân canh giữ mới phát hiện điều dị thường, đây không phải là một bầy sói, mà là một đoàn kỵ binh.
- Đương! Đương! Đương!
Tiếng chuông cảnh báo vang lên dữ dội, Tô Định Phương rút đao ra hô to:
- Giết!
- Giết!
Quân Tùy bỗng được phát động, năm nghìn kỵ binh phi nhanh, khua đao giáo, giống hệt vũ bão hướng về phía doanh trại của quân địch...
Thi thể Tưởng quản gia được đưa ra từ sau viện, thi thể vừa bị chôn xuống, trên người còn hơi ấm, binh sĩ lục soát trên người ông ta tỉ mỉ một lần, một gã binh sĩ đứng dậy báo cáo:
- Khởi bẩm tướng quân, người này trong miệng còn ngậm vụn sáp, hình như đã nuốt phải vật gì đó.
- Tìm xem đó là vật gì!
Ngụy Bí ra lệnh, gã đi vào trong phòng, trong phòng mọi vật khả nghi đều bị bày ra bừa bãi trên mặt đất, do chủ thuê nhà nhận ra, trong đó là chục bả đao cùng hơn mười quân nỏ.
- Có phát hiên ra gì không?
Ngụy Bí bước vào hỏi.
Một gã quan quân đang thẩm tra đối chiếu số hiệu quân nỏ, đứng lên nói:
- Tướng quân, những quân nỏ này đều là từ trận chiến Triều Tiên khi đó vận chuyển đến Liêu Đông, năm đó đều là nỏ mới.
- Liêu Đông?
Ngụy Bí hơi nhíu mày, một gã binh sĩ vội vã bước vào, trong tay cầm một vỏ tròn bằng sáp nhỏ (trong bọc thuốc, thời xưa còn để thư mật trong vỏ sáp):
- Tướng quân, thứ này tìm thấy trong bụng Tưởng quản gia.
Ngụy Bí tinh thần rung lên, lập tức rút đao mở vỏ sáp này ra, bên trong lộ ra một tờ giấy nhỏ, trên đó chỉ ghi bốn chữ: “Hiệu thuốc bắc Liêu Đông”.
- Tướng quân, hiệu thuốc bắc Liêu Đông hình như là một hiệu thuốc trong chợ Bắc.
Một gã binh sĩ bên cạnh nói.
Ngụy Bí liền hạ lệnh:
- Ở đây chỉ chừa lại hai mươi người, những binh sĩ còn lại đi chợ Bắc bắt người, một người cũng không được thiếu.
Ba trăm binh sĩ liền cấp tốc xếp thành hàng, thẳng hướng chạy tới chợ Bắc.
Phố Dược nằm ở phía tây bắc của chợ Bắc, gồm hơn hai mươi hiệu thuốc, hiệu thuốc bắc Liêu Đông chỉ là một trong những hiệu thuốc không coi là lớn lắm ở đây. Nó chiếm khoảng nửa mẫu đất, do một gian trưng bày cùng mấy gian nhà kho cấu thành, nhưng nơi này nổi tiếng nhờ việc bán nhân sâm.
Lúc này đang là sau giờ ngọ việc buôn bán tốt, trong tiệm chật ních khách quan đến mua nhân sâm. Đúng lúc đó, một tốp binh sĩ chạy ào vào khách đường, một gã binh sĩ hô to:
- Tất cả mọi người ngồi xuống!
Bên trong khách đường nhanh chóng trở nên tĩnh lặng, hơn mười quan khách mặt nhìn mặt, một gã nhân viên thấy tình hình không ổn, liền vội chạy về phía sau viện, hướng tới cửa. Một mũi tên phóng nhanh như tia điện, trúng ngay giữa lưng tên nhân viên, tên đó thốt lên thảm thiết rồi ngã xuống đất.
Tiếng kêu thảm thiết của tên nọ làm những khách quan trong nội đường sợ hồn tiêu phách tán, đều ôm đầu ngồi xuống. Quân lính mạnh mẽ xông lên, lật úp ra đất vài tên làm thuê còn lại và tay chưởng quầy. Đúng lúc này, hậu viện vang lên tiếng đao kiếm tấn công, ngay sau đó là những tiếng kêu thảm thiết, rồi sau đó hậu viện dần chìm trong tĩnh lặng.
Ngụy Bí bước vào hậu viện, đứng bên tường là hai mươi mấy cung nỏ thủ của Nội vệ quân. Họ đã kết thúc chiến đấu, trên mặt đất có vài tên mặc đồ đen, trên người đều trúng một mũi tên. Trong góc tường là một cô gái trẻ đẹp, ánh mắt lộ ra sự kinh hoàng cùng vẻ hoảng sợ, có vài tên quân Tùy đang kè đao trên cổ cô ta.
Một nam thanh niên cao gầy khác đang ngồi dựa bên tường, trên đùi trúng một mũi tên, hai tay thì bị trói sau lưng, trong ánh mắt chứa đầy sự thâm độc. Một gã binh sĩ đưa mấy tấm yêu bài cho Ngụy Bí, Ngụy Bí nhìn thoáng qua, vung tay hạ lệnh:
- Mang tất cả đi.
…
Quân nội vệ tập trung ở ngoại thành, quân doanh của họ chiếm đến mấy trăm mẫu đất, quân nha cũng trong quân doanh, chỉ cách quân doanh của bọn lính một bức tường.
Dương Nguyên Khánh được mấy trăm thân binh hộ vệ, cưỡi ngựa đang đi tới quân nha của Nội vệ. Ở cửa, tướng quân Ngụy Bí đã chờ sẵn, thấy Dương Nguyên Khánh đến, gã liền bước lên phía trước, khom mình hành lễ:
- Tham kiến tổng quản.
Dương Nguyên Khánh xoay người xuống ngựa, hỏi:
- Phạm nhân đang ở đâu?
- Ở trong đại lao, tổng quản mời đi bên này.
Ngụy Bí dẫn Dương Nguyên Khánh đi vào quân nha, đại lao ở phía trong hậu viện, mặt đất được xây dựng chỉ một màu trắng xóa, sau khi đi vào có một thềm đá thông ngầm, toàn bộ đại lao này đều xây bằng đá tảng, kiên cố không gì sánh bằng.
Bên trong đại lao chỉ một màu đen, u ám lạnh lẽo, khiến người ta phải sởn da gà. Tổng cộng có bốn mươi phòng giam, chủ yếu là giam giữ những kẻ do thám, cùng một ít tên tội phạn trọng yếu, ra vào đại lao này thì phải vượt qua ba cánh cửa sắt, có thể nói một ngày đã vào đây, thì đừng mong có ngày thoát ra.
Ngụy Bí dẫn Dương Nguyên Khánh đi tới gian giữa ở phía trước đại lao, một gian giam giữ một nam nhân cao gầy, một gian khác thì giam một nữ nhân còn trẻ đẹp, trên tay chân đều mang xiềng xích.
Nam nhân mất quá nhiều máu, vẫn còn hôn mê. Dương Nguyên Khánh đi tới gian tù của nữ nhân kia, liếc mắt quan sát, nữ nhân kia cuộn tròn người một chỗ, chân mang còng.
- Nữ nhân này dùng thủ đoạn độc ác, sử dụng một loại binh khí tinh vi, giết chết Tưởng quan gia.
Nữ nhân nghe có tiếng nói, chậm rãi ngẩng đầu lên, theo ánh đuốc, thấy trước mặt là một đám quân binh nhà Tùy, ở giữa là một quan quân trẻ tuổi, liền kích động, nói:
- Ngươi là... Dương Nguyên Khánh?
- Ngươi biết ta?
Dương Nguyên Khánh cảm thấy chút kỳ quái.
Nữ nhân nở một nụ cười sắc nhọn, vừa thu lại tiếng cười liền nghiến răng nghiến lợi nói:
- Năm đó khi ngươi giết Cái Kiều Kiều, để thoát ba người, ta là một trong số đó, làm thế nào ta không nhận ra ngươi, ngươi dù có đốt thành tro ta cũng nhận ra.
- To gan!
Một binh sĩ gầm lên.
Dương Nguyên Khánh khoát tay chặn lại, ngăn chặn cơn phẫn nộ của các binh sĩ, hắn nhìn kỹ một hồi lâu, thản nhiên nói:
- Nói như vậy, các ngươi là do Cái Tô Văn phái tới?
…
Trong nghị sự đường của Tử Vi Các, hơn mười trọng thần vây quanh phần đầu của một chiếc bàn lớn, trên đó bày ra đầy các loại công văn cùng hơn mười tấm yêu bài tìm thấy trong hiệu thuốc, các đại thần thì đang khe khẽ bàn luận.
Dương Nguyên Khánh nhặt một tấm ngân bài lên, nhìn một lát, trên đó có khắc ba chữ Hán: “Triều Tiên đường”, đây là tổ chức tình báo của Cao Cú Lệ, hắn lật sang mặt trái, ở mặt này có một con số “Giáp Tứ”.
Hắn đặt ngân bài xuống, nhìn các đại thần nói:
- Các vị đại thần, hiện tại chân tướng sự việc đã rõ ràng, người ám sát Vương phi cùng thế tử là người Triều Tiên gây nên, căn cứ vào việc lấy khẩu cung từ các nhân chứng, vì Cao Khai Đạo đã đầu hàng Cao Cú Lệ, Triều Tiên vương đang mưu đồ Liêu Đông, dùng sự việc ám sát này hòng mở ra nội loạn bên ta, dĩ nhiên là để ngăn cản chúng ta tiến đánh Liêu Đông.
Dương Nguyên Khánh nhìn thoáng qua mọi người nói:
- Mọi người thử nói xem chuyện này nên xử lý như thế nào?
Tô Uy thầm nghĩ trong lòng, Sở Vương sẽ không muốn lợi dụng cơ hội này để lấy cớ đánh Triều Tiên đâu! Lần đánh Triều Tiên trước đó không những khiến cho toàn bộ triều Tùy rơi vào nội loạn mà một số vùng gần như bị diệt vong, nếu như muốn tái đánh Triều Tiên đây quả là một chuyện không dễ dàng gì.
- Điện hạ, ty chức kiến nghị phái sứ thần sang Triều Tiên vấn tội, để Triều Tiên vương cho chúng ta một chút đạo lý, chuyện này tạm thời không nên nóng vội.
Bùi Củ hiểu ý định của Dương Nguyên Khánh, liền tiếp lời:
- Điện hạ, Tô tướng quân nói chí phải, chúng ta đã diệt trừ được Đậu Kiến Đức, quốc lực có chút hao tổn, nếu lại phát động chiến đấu với Triều Tiên, sợ rằng chúng ta không có đủ sức lực, nhưng nếu bỏ qua cho Triều Tiên, thì cũng như đã tặng cho triều Đường một cơ hội tiến công. Điện hạ, việc này phải cẩn trọng ạ!
Không chỉ Bùi Củ, hơn mười trọng thần khác cũng phản đối việc đánh Triều Tiên. Chuyện Dương Quảng xưa tam chinh Triều Tiên để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng đã để lại ấn tượng khó phai trong lòng các đại thần, bọn họ dù thế nào cũng không chịu dẫm lên vết xe đổ ấy. Trong nghị sự đường không có lấy một lời tán thành, mà ngay cả người trung lập cũng không có, điều này làm Dương Nguyên Khánh có chút bất đắc dĩ.
Trên thực tế hắn đã chuẩn bị thuyền vượt biển, nhưng lại không thể mệnh La Sĩ Tín công mà không diệt đối với Cao Khai Đạo, chính là dẫn ra trận chiến Triều Tiên, tuy rằng quân đội đêu nằm trong tay hắn, nhưng dù sao đây cũng là chinh chiến của cả một vương triều, phải thông qua cả triều đình, hắn không có khả năng một cước đá văng cả triều đình, tự ý khai chiến, như vậy chỉ khiến người người nghĩ hắn thật nhẫn tâm, làm cho triều đình cuối cùng sụp đổ.
Dương Nguyên Khánh thấy mọi người nhất trí phản đối, ngay cả cái lão bánh quẩy Tô Uy cũng nhảy ra phản đối đầu tiên, hắn cố kìm nén tức giận, gật đầu nói:
- Được rồi! Vậy trước tiên sẽ phái sứ thần đi Cao Cú Lệ sang vấn tội, để cho Triều Tiên vương cho chúng ta một lời giải thích.
…
Dương Nguyên Khánh giận giữ trở lại quan phòng của mình, hắn cầm chum trà lên, ừng ực uống. Lúc này, hắn không còn giữ nổi bình tĩnh nữa, hung hăng ném chén trà xuống mặt đất, “choang” một tiếng, chén trà bị rơi nát tươm. Dương Nguyên Khánh chắp tay sau đít bước tới gần cửa sổ, xanh mặt không nói một lời.
Bùi Thanh Tùng vừa lúc bước vào cùng vài tờ công văn, thấy Sở Vương tức giận như vậy, nhất thời sợ đến không dám nói tiếp nữa, từ lúc y nhập chức cho đến bây giờ, chưa từng thấy Sở Vương nổi giận đến mức đó.
Lúc này, một tên Ký thất tham quân khác là Tiêu Tấn cũng cùng Văn Tấn tiến vào, hai người nhìn nhau, lập tức vẫy tay gọi trà đồng phụ trách pha trà tới, nhặt những mảnh vỡ trên mặt đất sạch sẽ.
Xong xuôi, mấy người nhanh nhẹn bước ra khỏi phòng. Đúng lúc đó, Nạp ngôn Dương Sư Đạo đi đến, Bùi Thanh Tùng vội “Xuỵt” một tiếng, chỉ vào bên trong, thấp giọng nói:
- Đang nổi trận lôi đình!
Dương Sư Đạo gật đầu cười:
- Ta đi khuyên nhủ Sở vương.
Gã đẩy cửa bước vào gian phòng, Dương Nguyên Khánh vẫn chắp tay đứng cạnh cửa sổ như ban nãy, gã mỉm cười nói:
- Có phải đang giận vì sự phản đối của các đại thần không?
- Ta thực không phải là tức giận mà là thất vọng. Đường đường là đại thần của Thiên triều Tùy, không ngờ lại bị một nước tép riu như Triều Tiên dọa cho thành như vậy, điều này sao có thể chịu nổi chứ?
Dương Nguyên Khánh nói giọng trầm uất.
- Ty chức nghĩ trong chuyện này có chút hiểu lầm.
Dương Sư Đạo vẫn cười tủm tỉm nói:
- Có thể là các đại thần đã hiểu sai ý tứ của ngài.
- Hiểu nhầm cái gì?
Dương Nguyên Khánh quay lại, chăm chú nhìn Dương Sư Đạo.
- Hiểu lầm ở chỗ mọi người đều nghĩ chuyện ngài muốn phát động đánh Triều Tiên cũng như Đại Nghiệp thứ bảy, binh lực điều động trong cả nước, một triệu dân phu phải tham gia vận chuyển lương thực cho quân đội, nêu như vậy, triều Đường có thể dễ dàng chiếm lấy Thái Nguyên.
Dương Nguyên Khánh lắc đầu nói:
- Sao có thể?
- Cho nên ngài mới không nói rõ với mọi người, sau sự việc ty chức mới phản ứng lại, ngay cả Liêu Đông cũng không chiếm được, còn muốn đánh Triều Tiên nữa sao?
Dương Nguyên Khánh lúc này mới nhận ra mình đã nói không rõ ràng, hắn lắc đầu, cười khổ:
- Là tại ta, lỗi do ta không nói rõ.
Hắn khoát tay nói:
- Ngồi xuống đi!
Hai người đều ngồi xuống, lúc này người bưng trà tiến lại rót hai chén trà mới, đặt lên bàn, rồi lui xuống. Dương Nguyên Khánh lúc này mới chậm rãi giải thích:
- Chuyện đánh Triều Tiên, thật sự ta đã nghĩ ra cách này từ lâu, nay vừa lúc có cơ hội, nhưng thực ra ta muốn khai chiến không giống như năm Đại Nghiệp thứ bảy, nói thẳng ra là vì lương thực. Nếu như ta đánh bại quân đội Triều Tiên, buộc bọn họ phải cầu hòa, vậy thì ít nhất có thể thỏa chí vơ vét của cải thì cũng phải đến ba trăm ngàn thạch lương thực, sẽ giúp ích cho việc khôi phục dân sinh ở Hà Bắc, còn về chiến dịch tiêu diệt Triều Tiên, thì có thể lo sau, hiện giờ chưa phải lúc.
Dương Sư Đạo cười nói:
- Nếu như Sở vương sớm nói như thế thì các đại thần cũng không đến nỗi phản ứng kịch liệt như vậy, chuyện đó là do Sở vương, ngài không thể trách các đại thần đã không nể mặt ngài, ngay cả ty chức cũng hiểu nhầm.
Dương Nguyên Khánh không trách được, chỉ khoát tay nói:
- Thôi quên đi, có chuyện này quan trọng hơn. Bây giờ nói chút chuyện của ngươi đi.
- Chuyện của ty chức, ty chức thì có chuyện gì?
Dương Sư Đạo thắc mắc.
Dương Nguyên Khánh trầm ngâm một lúc nói:
- Lần điều chỉnh này của Tử Vi Các, ta dự định cho ngươi vào làm Tể tướng.