Editor: Dứa
Beta: Hoàng Lan
Vương Duyệt căm hận hành vi tàn ác sát hại tám nghìn tù binh của Vương Trừng, nhưng hắn chưa bao giờ nghĩ tới việc giết chết ông ta. Ở trong nhận thức của hắn, người trong tộc, đặc biệt là Vương Trừng vẫn là họ hàng gần trong tam tộc, quan điểm chính trị có thể khác nhau, nhưng hắn tuyệt đối không bao giờ nghĩ tới việc giết chết đối phương.
Tàn sát người trong tộc, dựa theo lệ tộc, phải bị trục xuất khỏi gia môn.
Nhìn vẻ mặt khiếp sợ của cháu, Vương Đôn nói: “Danh tiếng của Vương Trừng đã thối nát rồi, một mẩu phân chuột làm hỏng một nồi cháo, ta không tàn sát người trong tộc, ta đang thanh lý môn hộ (*). Dù con có đồng ý hay không, ta nhất định sẽ giết chết Vương Trừng.”
(*): Loại trừ những phần tử xấu, phản trắc, không đáng tin cậy ra khỏi môn phái.
Vương Đôn nổi tiếng cứng đầu, chuyện ông đã nhận định, chắc chắn sẽ thực hiện không chút do dự. Năm đó, Thạch Sùng - nhà giàu số một Đại Tấn tổ chức tiệu rượu tại vườn Kim Cốc, Thạch Sùng có tật xấu mời rượu, lệnh cho tỳ nữ đứng bên cạnh mời rượu, nếu khách không uống, Thạch Sùng sẽ sai người chém đầu tỳ nữ mời rượu, những vị khách có mặt tại đó không ai từ chối, chỉ riêng Vương Đôn, mặc kệ Thạch Sùng chém liên tiếp ba tỳ nữ, ông vẫn nói không uống là không uống.
Vương Đôn nói muốn giết Vương Trừng, Vương Trừng chắc chắn sẽ chết dưới tay ông ấy.
Vương Duyệt vội vàng trở về, bàn bạc đối sách cùng nhóm người Tào Thục. Mọi người nghe nói Vương Đôn muốn giết Vương Trừng, cả thành Lạc Dương không ai không biết tính tình Vương Đôn, mọi người đều xác định Vương Đôn chắc chắn sẽ ra tay.
Sắc mặt Tào Thục lo lắng: “Trước kia lúc Vương Trừng còn ở Lạc Dương, cũng không hoa mắt ù tai tàn bạo như thế, có thể xem là một người hiền đức. Chuyển tới Kinh Châu, trời cao Hoàng đế ở xa, không bị quản thúc —— Hiện giờ Đại Tấn đã mất nước, ông ta chẳng còn kiêng nể gì, trở thành Hoàng đế của đất Kinh Châu, một mình quyết định mọi việc, quyền lực ăn mòn trái tim. Có lẽ ở trong mắt ông ta, tính mạng và danh tiếng đều không quan trọng, mọi thứ đều nằm trong tầm kiểm soát của ông ta. Một Vương Trừng như vậy, có thể bị chúng ta thuyết phục, đầu quân cho minh chủ Giang Nam, phục tùng dưới trướng người khác hay sao?”
Khi tới đây, mọi người đều cảm thấy Kinh Châu chính là cảng tránh gió, thật sự tới rồi mới phát hiện, Vương Trừng đã không còn là Vương Trừng nữa rồi, Vương Trừng sống quen trong dục vọng, chưa chắc sẽ đồng ý nương tựa vào bất cứ thế lực nào.
Nơi này không phải cảng tránh gió, rất có thể chính là cạm bẫy.
Tuân Hoán nói: “Chúng ta vào thành thì dễ, ra khỏi thành mới khó.”
Si Giám nói: “Thần sẽ lấy cớ dạo thành Kinh Châu, ra ngoài thử một lần.”
Si Giám nói đi là đi, nhưng cuối cũng vẫn không thể ra ngoài, hắn bị phụ tá ngăn lại, nói rằng dân chạy nạn Ba Thục bên ngoài đang gây sự, để đảm bảo sự an toàn cho các vị khách quý, mọi người nên ở yên trong phủ Thứ sử, không nên ra ngoài.
Điều đó tương đương với việc mọi người đều bị giam lỏng trong phủ Thứ sử.
Giữa trưa ngày hôm sau, cuối cùng Vương Trừng cũng tỉnh rượu, vừa mới rời giường, ông ta lại bày tiệc chiêu những người thân đi chạy nạn.
Bởi vì uống rượu lâu ngày, cả mắt và mũi của Vương Trừng đều ửng đỏ, Vương Trừng hoàn toàn coi rượu như nước uống, tự rót tự uống, lúc thì hoài niệm Lạc Dương thời Thanh Hà xa xưa, lúc lại khóc than cho cái chết của cả nhà anh cả Vương Diễn. Điên điên khùng khùng, đầu óc không bình thường.
Khi Vương Trừng uống đến độ hưng phấn, ông ta rút thẳng kiếm, nhảy nhót múa kiếm trong bữa tiệc, sau đó còn mời Vương Đôn và Vương Duyệt cùng múa, thể hiện ý chí thu phục núi sông, khôi phục Đại Tấn.
Ba thế hệ già, trung, trẻ của Lang Gia Vương thị đồng loạt nhảy múa, tỏa ra ánh sáng lạnh lẽo.
Trong bữa tiệc, Vương Đôn đã nhiều lần đều muốn nhân cơ hội giết chết Vương Trừng qua màn múa, nhưng nghĩ đến Vương Trừng chết đi, thuộc hạ của hắn ta sẽ tàn sát mọi người ngay lập tức, ông ấy chỉ có thể nhịn xuống.
Sau màn múa kiếm, Vương Trừng nâng chén, mời mọi người cùng uống.
Vương Duyệt dâng lên một bức thư, nói: “Chúng ta đã quấy rầy đường thúc một ngày, mẫu thân sốt ruột đoàn tụ với người nhà, chất nhi viết một bức thư nhà cho phụ thân, muốn phụ thân phái người tới đón chúng ta về Kiến Nghiệp, nhờ đường thúc chuyển giúp.”
Vương Trừng tiếp nhận thư nhà, đặt sang bên cạnh, cũng không ra lệnh ngay cho thuộc hạ đi Kiến Nghiệp truyền tin, mà nói: “Gấp cái gì? Chất nhi và đường đệ đường xa đến đây cậy nhờ, tộc nhân như ta phải chiêu đãi thật tốt. Kinh Châu là nơi trù phú đông đúc, vẫn còn vài danh lam thắng cảnh, đợi ngày nào đó ta rảnh rỗi, sẽ đưa các ngươi đi chơi vui vẻ.”
Vương Duyệt cười nói: “Chúng ta không vội, một đường ngựa xe mệt nhọc, chúng ta cũng cần nghỉ ngơi hồi sức, nhận được sự chiêu đãi nhiệt tình từ đường thúc, chúng ta sẽ ở lại thêm vài ngày —— Chỉ là, phụ thân vẫn chưa biết mẫu tử chúng ta đã an toàn xuôi nam, trú ngụ dưới cánh chim bảo vệ của đường thúc, chắc chắn phụ thân rất sốt ruột chờ đợi tin tức của chúng ta, ngày đêm lo lắng không thôi. Thân là con cái, khiến phụ thân lo lắng vướng bận, đó là tội bất hiếu, vậy nên nhờ đường thúc chuyển giao thư nhà cho phụ thân, trước bình an với ông trước.”
Vương Duyệt viện đến hiếu đạo, Vương Trừng không tiện từ chối, bèn giao bức thư nhà cho phụ tá: “Ngươi mau đi sắp xếp khoái mã đưa thư đến tay Kỷ Khâu Tử ở Kiến Nghiệp, nói thê nhi và đường đệ Vương Đôn của hắn đang làm khách tại Kinh Châu, dặn hắn đừng nhớ mong.”
Lời này nghe thì có vẻ như dịu dàng thắm thiết, nhưng thực chất lại mang ý áp chế, nghĩa là vợ, con và anh em của ngươi đều ở trong tay ta, ngươi xem mà làm!
Vương Đôn mắng thầm trong lòng: Tên khốn khiếp này, chờ chúng ta an toàn, ta nhất định sẽ giết ngươi đầu tiên.
Ngoài mặt cả khách và chủ đều vui vẻ, nhưng trong lòng thì tính kế lẫn nhau.
Sau khi yến tiệc kết thúc, Vương Duyệt đi thăm “biểu muội” Thanh Hà đang ốm nặng.
Mấy huyệt đạo trên đầu Thanh Hà đều cắm châm, giống như một con nhím bạc, nàng lại tiếp tục hôn mê.
Thầy thuốc là người bản địa Kinh Châu, ngôn ngữ không thông, cũng may đại phu biết chữ, Tào Thục viết trên giấy: “Bệnh tình của chất nữ nhà ta thế nào?”
Thầy thuốc viết nói: “Não bộ bị tổn thương, kinh mạch tắc nghẽn, phải uống thuốc hàng ngày, phối hợp với châm cứu trị liệu. Nghỉ ngơi nhiều hơn, đừng kích thích nàng, giữ cho tâm thái bình thản.”
Thầy thuốc rút châm, Vương Duyệt tự mình tiễn thầy thuốc ra cửa, thậm chí còn bí mật nhét một miếng vàng lá cho đại phu.
Vương Duyệt chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Nhung kẹt xỉ, biết được sức mạnh của đồng tiền. Ngày hôm qua, lần đầu tiên thầy thuốc xem bệnh cho Thanh Hà, hắn đã né tránh tai mắt của phủ Thứ sử, nhét cho thầy thuốc một miếng vàng lá, hôm nay cũng vậy.
Ngôn ngữ không thể giao tiếp, vàng trở nên thông dụng.
Thầy thuốc nhét miếng vàng lá vào trong ống tay áo, sau đó vội vàng rời đi.
Vương Duyệt vào phòng, xem lời dặn dò của thầy thuốc, nói: “Đừng nói với nàng về sự thay đổi của Vương Trừng, kẻo nàng lại suy nghĩ nhiều.”
Tào Thục thở dài: “Vừa ra khỏi hang hổ, lại bước vào hang sói, nếu Thanh Hà biết được, khẳng định sẽ lo lắng không thôi. Nàng không phải người ngồi chờ chết, chắc chắn sẽ nghĩ biện pháp thoát thân, não bộ lại tổn thương lần nữa. Ta biết rồi, ta sẽ không nói cho nàng, chỉ nói mọi chuyện đều ổn, bởi vì dân lưu lạc bên ngoài thành Kinh Châu quá nhiều, lúc này không tiện ra khỏi thành, đợi phụ thân con phái người tới đón, chúng ta sẽ đi đến Kiến Nghiệp.”
Vương Duyệt uống quá nhiều, khát nước không chịu nổi, đi tới bên cạnh bàn rót nước uống, Tào Thục che mũi: “Mùi rượu nồng quá, ngồi xa một chút, đừng làm ảnh hưởng đến Thanh Hà.”
Vương Duyệt tự giác bưng ấm trà ra xa: “Vương Trừng nhất quyết ép con uống, nên con đã uống cùng ông ta vài chén…” Vương Duyệt nói cho mẹ chuyện thư nhà trong tiệc rượu.
Tào Thục nghe con trai nói thư nhà đã được chuyển đến Kiến Nghiệp, trong lòng cũng nhẹ nhàng hơn: “Phụ thân con rất thông minh, khi thư nhà truyền tới tay, ông ấy sẽ biết nên làm gì, đồng thời nhất định sẽ tìm cách cứu chúng ta.”
Vương Duyệt lại không lạc quan như mẫu thân: “Tại Kiến Nghiệp có Lôi di nương, còn có ba đệ đệ, phụ thân không thiếu một nhi tử như con. Phụ thân không phải loại người vì thê nhi mà bị để người khác áp chế.”
Tào Thục tự lượng sức mình, biết Vương Đạo chồng bà không mấy để ý đến người vợ là bà, nhưng đối với chồng bà mà nói, ba người con vợ lẽ kia cộng lại cũng không bằng Vương Duyệt, người con dòng chính duy nhất này.
Tào Thục cười nói: “Từ nhỏ con đã bị phụ thân con chiều hư, nhi tử trong thiên hạ, làm gì có ai không cúi đầu nghe lời phụ thân, không dám làm trái một chút nào? Con thì ngược lại, con chơi cờ với ông ấy, đánh cho ông ấy hoa rơi nước chảy, không thèm quan tâm đến mặt mũi của người làm cha. Ông ấy chẳng hề tức giận, còn cười nhắc nhở con, nói “Chắc con vẫn còn nhớ rõ quan hệ giữa chúng ta chứ”. Ông ấy muốn cho con bậc thang, tính ván cờ hòa, nhưng con lại không nghe lời ông ấy, tiếp tục chơi, ép ông ấy phải tức giận nhận thua mới thôi. Ở trong mắt ông ấy, đích trưởng tử mới là quan trọng nhất.” ( Chú thích: Trích “Thế Thuyết Tân Ngữ” )
Vương Đạo nuông chiều Vương Duyệt như một người cha, là hòn ngọc quý trên tay, ông không dùng uy nghiêm của người làm cha để áp chế con trai. Nhưng vì mối quan hệ lạnh nhạt giữa mẹ và cha, nên Vương Duyệt cũng tự nhiên mà đồng cảm với mẹ, xa cách cha.
Vì vậy, Tào Thục đề cập đến quá khứ êm ấm giữa cha con, cũng không đả động được Vương Duyệt.
Vương Duyệt hời hợt nói: “Đợi xem phụ thân sẽ phản ứng như thế nào sau khi nhận được thư rồi tính tiếp. Vương Trừng thay đổi, ai biết được phụ thân có thay đổi hay không?”
Trước kia Vương Trừng cũng không dám giam lỏng tộc nhân tại nhà, lấy đó làm lợi thế.
Hắn vừa dứt lời, ngay cả Tào Thục cũng bắt đầu nghi ngờ bản thân mình, Vương Đạo sẽ thay đổi sao?
Một đường chạy nạn, bà đã nhìn quen đủ loại ngươi lừa ta gạt, trở mặt thành thù, hiện giờ bị nhốt trong thành Kinh Châu, Tào Thục không dám lạc quan về bản chất của con người.
Từ Kinh Châu đến Kiến Nghiệp, có thể đi dọc theo sông Trường Giang bằng đường thủy, nếu đi cả ngày lẫn đêm, Vương Trừng nói, trong khoảng mười ngày, người đưa tin có thể mang thư hồi âm của Vương Đạo trở về, ông ta muốn các vị khách yên tâm du sơn ngoạn thủy tại Kinh Châu.
Mọi người nào có tâm trạng vui đùa? Chỉ phối hợp diễn xuất cùng Vương Trừng mà thôi.
Tin tốt duy nhất chính là, thầy thuốc châm cứu trị liệu cho Thanh Hà ba lần một ngày, tinh thần của Thanh Hà mỗi ngày một khá lên, không còn động chút là đau đầu, tinh thần uể oải không phấn chấn như trước nữa.
Ngày hôm đó, mọi người đi thăm núi Dương Hỗ, Tào Thục lấy cớ phụ nữ không tiện xuất đầu lộ diện, một mình ở trong phủ chăm sóc Thanh Hà (Tuân Hoán vẫn luôn lấy thân phận đàn ông để gặp người, hiện đang tự xưng là cháu trai Tào Mãnh của Tào Thục…).
Tào Thục nhìn thầy thuốc châm cứu cho Thanh Hà. Sau khi chấm dứt việc trị liệu, Tào Thục lại bí mật nhét vàng lá cho thầy thuốc, dùng tiếng Kinh Châu vừa mới học được nói: “Đại phu vất vả rồi.”
Thầy thuốc nghe vậy, vô cùng kinh ngạc, không ngờ người phụ nữ cao quý đến từ Lạc Dương này lại học ngôn ngữ của những người man rợ.
Tào Thục mỉm cười, cầm bút viết: “Ta chỉ biết một câu đó, được quản sự trong phủ dạy.”
Thầy thuốc hành lễ, cáo từ cùng miếng vàng lá trong tay áo.
Nha hoàn đưa thuốc đã sắc xong tới, Tào Thục dùng cổ tay thử nhiệt độ, khi đã có thể đưa vào miệng, mới đút cho Thanh Hà.
Thanh Hà vội nói: “Con có tay có chân, không cần làm phiền phu nhân.”
Tào Thục thương con gái phải chịu quá nhiều đau khổ, đến nay đầu óc vẫn chưa bình phục, bà chưa bao giờ hoàn thành nghĩa vụ của người mẹ, hiện giờ chỉ có thể nhân cơ hội này bồi thường lại, bà nói: “Ta tự nguyện, nghe lời, uống thuốc đi.”
Thanh Hà nhíu mày nhìn nước thuốc màu đen: “Phu nhân đút từng muỗng một, uống rất chậm, con tự cầm chén thuốc uống một hơi cạn sạch, như vậy mới thích. Một ngày uống thuốc sáu lần, uống thuốc như ăn cơm, trong hơi thở của con toàn mùi thuốc.”
Tào Thục đành phải đưa chén thuốc cho nàng, đợi Thanh Hà uống xong, bà lại nhét vào miệng nàng một viên kẹo để làm tan đi vị đắng.
Thanh Hà ngậm kẹo: “Không biết hiện giờ mẫu hậu thế nào rồi.”
Kinh Châu xa xôi, bưng tai bịt mắt, lúc này mấy người Tào Thục vẫn chưa biết Dương Hiến Dung đã trở thành Trung Sơn vương phi của Hán quốc.
Tào Thục nói: “Lưu Diệu nói lời sẽ giữ lời, con không cần lo lắng cho tính mạng của mẫu thân. Mặt khác, đợi chúng ta đến Kiến Nghiệp, dàn xếp xong xuôi, lại phái người đi Bình Dương Hán quốc hỏi thăm từ từ.”
Thanh Hà đang nhai kẹo, đột nhiên thái dương bên trái giật giật, giống như bị rìu chém, nửa gương mặt cứng đờ vì đau đớn.
Tào Thục vội nói: “Lại đau đầu nữa rồi? Ta đi gọi đại phu tới.”
Thanh Hà đau tới mức ứa mồ hôi lạnh, không muốn Tào Thục phải lo lắng, nàng cố gắng chịu đựng: “Không sao đâu, lát nữa sẽ ổn thôi.”
Tào Thục nhìn từng giọt mồ hôi lạnh của Thanh Hà, nào có nỡ? Vội vàng kêu nha hoàn đi tìm thầy thuốc tới đây.
Nhưng không biết vì sao, có thể là nha hoàn lười biếng, không ở bên ngoài hầu hạ, Tào Thục gọi vài tiếng, vẫn không có người trả lời.
Thầy thuốc ở ngay sân trước, luôn sẵn sàng đợi lệnh.
Không có nha hoàn truyền lời, Tào Thục không còn cách nào, chỉ có thể tự mình đi tới sân trước mời thầy thuốc.
Đầu Thanh Hà đau như muốn nứt ra, nàng ôm chặt lấy cây cột giường, gân xanh hằn rõ trên mu bàn tay, nàng hận không thể đập đầu vào cột để giảm đau.
Khi đau tới mức trời đất u ám, kẽo kẹt một tiếng, cửa mở ra.
Thanh Hà cảm thấy khó hiểu, dựa theo kinh nghiệm vài lần trước gọi thầy thuốc, đi tới đi lui từ nơi này đến sân trước ít nhất cũng phải mất một nén nhang. Chân trước Tào Thục vừa mới ra khỏi cửa, vì sao chân sau thầy thuốc đã tới rồi?
Thanh Hà tập trung nhìn kỹ, người tới không phải thầy thuốc, cũng không phải Tào Thục, mà là Thứ sử Kinh Châu Vương Trừng, người đáng lẽ hiện tại đang du ngoạn núi Dương Hỗ cùng mấy người Vương Duyệt!
Thanh Hà kinh ngạc, vội vàng xuống giường hành lễ: “Vãn bối Tào Hoa, bái kiến Vương đại nhân.”
Vương Trừng nói: “Ngẩng đầu lên.”
Thanh Hà chậm rãi ngẩng đầu.
Vương Trừng cúi đầu hành lễ với nàng: “Thứ sử Kinh Châu Vương Trừng, bái kiến công chúa Thanh Hà. Công chúa điện hạ, hiện giờ Đại Tấn diệt vong, núi sông chia cắt, các anh hùng Trung Nguyên lần lượt trỗi dậy, chỉ trong hai tháng ngắn ngủi đã xây dựng năm hành đài, lập bốn vị Hoàng thái tử. Trong đó chưa kể đến minh chủ Giang Nam Tư Mã Duệ.”
“Vi thần là Thứ sử Kinh Châu được Đại Tấn sắc phong, tất nhiên chỉ phục tùng Đại Tấn, các hành đài, Thái tử và những người được gọi là minh chủ đều là tự phong, vi thần chỉ trung thành với Đại Tấn, vi thần sẽ không để bọn họ vào mắt. Mặc dù Đại Tấn diệt vong, nhưng công chúa Thanh Hà chính là huyết mạch dòng chính duy nhất của tiên đế, huyết thống thuần khiết, là người mà bốn vị Hoàng thái tử kia không thể so sánh. Vi thần nguyện ý trung thành với công chúa điện hạ, thành lập Kinh Châu hành đài, xin công chúa hãy hạ chiếu thư, ra lệnh cho quân đội trong thiên hạ tề tựu về Kinh Châu, cùng nhau tiến về phía Bắc Cần Vương.”