Thẩm gia đã rất vất vả mới thu gom được hai vị chủ dược. Thực tế là từ sáu năm trước, sau khi nhạc phụ của Kim Vô Huyễn qua đời, Thẩm gia đã bắt đầu tìm kiếm 10 vị dược tài còn lại. Bọn họ đã phải bỏ ra một số tiền rất lớn, có thể nói là đã tiêu hết tài sản, nếu không có 4 Dật kim của vợ chồng Kim Vô Huyễn, vấn đề sinh hoạt trong thời gian này sẽ gặp khó khăn.
Tất cả tài liệu đều được chuẩn bị thêm gấp mấy lần, cuối cùng Thẩm thị đã bỏ ra bao nhiêu tiền, khó mà nói được chính xác con số, nhưng không thể ít hơn 3, 4 vạn tiền được. Không dưới 40 Dật kim, số tiền này đã lớn gấp đôi so với gia sản của “thích khách Ngô Thăng” mà Tắc Hạ Học Cung đang truy nã.
Sau khi tài liệu được mang vào trạch viện phía Đông Nam, Kim Vô Huyễn và Ngô Thăng lập tức bắt đầu nghiên cứu, Thẩm nương làm trợ thủ ở bên cạnh.
Trước đó Ngô Thăng đã thương lượng nhiều lần với Kim Vô Huyễn, dựa theo ý của Ngô Thăng thì quyết định cuối cùng sẽ do hắn quan tưởng linh đan để tính toán và phân tích thành phần dược liệu.
Từ đầu Kim Vô Huyễn cảm thấy đề nghị của Ngô Thăng khó mà tin được, làm gì có đạo lý dùng quan tưởng để phân tích thành phần dược liệu? Nhưng sau đó y nghĩ lại, Ngô Thăng quan tưởng ra những thứ không giống với người thường. Nào là Thái Cực Cầu a, nào là mệnh đề song song a, không ai đoán được đó là thứ gì. Ngoài ra, Ngô Thăng cũng là chủ nợ của y, bởi vậy y cũng đồng ý thử một lần.
Trước tiên Ngô Thăng bắt đầu với những thứ đơn giản, hắn thử quan tưởng mật ong, muối tinh cùng Vô Căn Thủy nhưng chẳng phát hiện được gì. Sau đó nghĩ lại Ngô Thăng phát hiện mình rất ngu ngốc , 3 thứ này không phải là linh tài, chúng không chứa linh lực, tự nhiên Thái Cực Cầu sẽ không thu nạp được.
Tiếp đó, Ngô Thăng bắt đầu sử dụng đến linh tài. Tài liệu có hạn, mỗi một loại họ chỉ lựa chọn ra một ít để sử dụng. Công việc của Ngô Thăng là quan tưởng từng thứ một rồi ghi chép lại chúng .
Khương Hoàng Linh Chi: Linh Sa màu trắng vàng 15 hạt, Linh Sa màu xanh tím 9 hạt, Linh Sa màu đỏ tươi 11 hạt, Linh Sa màu xám tro 6 hạt, Linh Sa màu đen nhánh 2 hạt...
Trường Thúy Thanh Vũ: Linh Sa màu xanh biếc 7 hạt, màu trắng sữa 12 hạt, màu đen xám 5 hạt, màu đỏ sẫm 7 hạt...
Vụ Linh Tử: xanh đen 2 hạt, xám thẫm 3 hạt;
Đông Trùng Hạ Thảo: cát đỏ 21 hạt, vàng đất 7 hạt, vàng lục 8 hạt;
Hương Trăn Diệp...
Qua 3 ngày, Ngô Thăng đã quan tưởng được 2 lượt, nhờ có Thái Cực Đồ hắn đã xác định ra số lượng cũng như màu sắc linh lực của từng loại dược tài. Hắn nhận biết rõ ràng, dược tài có dược hiệu càng mạnh càng chuyển hoá được nhiều Linh Sa có màu sắc khác nhau .
Nhìn lại bản ghi chép, chỉ thấy trên bản vẽ phác thảo, chi chít ngang dọc đầy những ký hiệu vặn vẹo miêu tả các loại linh lực trong dược tài cùng với phương thức vận chuyển của chúng. Kim Vô Huyễn cùng Thẩm nương cũng rất ngạc nhiên: "Đây là?"
Ngô Thăng nhìn các bản ghi, rất là thoả mãn: "Đây là tài liệu quang phổ... Quan tưởng phổ, những thứ này là số học, truyền từ... Quê hương của ta, đây là số 3, đây là số 9, đây là số 12..."
Trải qua phân tích, các quan tưởng phổ của từng loại dược tài được treo lên quanh phòng, bước tiếp theo phải tiến hành đối chiếu với phế đan.
Vấn đề bây giờ là, hàng mẫu chỉ có một, hắn phải quyết định là muốn quan tưởng tổng thể 1 lần hay cắt thành nhiều phần để quan tưởng?
Từ góc độ chuyên môn mà nói, Phù hợp nhất đương nhiên là đối chiếu tổng thể một lần, linh đan được hình thành từ sự kết hợp của tất cả dược liệu. Những linh dược này ảnh hưởng lẫn nhau tạo ra các công hiệu hoàn toàn mới cho đan dược. Nếu chia đan dược ra thành nhiều phần có thể làm mất hiệu quả hoặc làm cho hiệu quả kém đi, như vậy đan dược phân tích ra cũng không còn tác dụng.
Nhưng nếu như dùng cách quan tưởng một lần duy nhất, Ngô Thăng lo lắng sẽ có quá nhiều màu sắc, hắn sẽ không thể nhớ rõ. Giống như lúc trước hắn quan tưởng viên linh đan của Tụ Long Sơn Nhân cũng vậy, linh lực chuyển hóa thành một số lượng lớn Linh Sa với đủ mọi màu sắc. Tuy rằng lúc đó, Ngô Thăng vẫn có thể phân biệt được các loại màu sắc, nhưng mỗi loại có bao nhiêu viên thì hắn chỉ có thể đếm được đại khái. Điều này làm hắn rất khó quyết định.
Nhìn viên phế đan trước mắt, Ngô Thăng cân nhắc cả một đêm vẫn chưa thể quyết định, đây là đầu mối duy nhất giúp họ luyện chế Trường Thọ Đan, à rồi, Thanh Linh Đan, cho dù nó chỉ là phế đan.
Ngược lại, Kim Vô Huyễn và Thẩm nương càng ngày càng tràn đầy tự tin —— từ lúc Ngô Thăng vẽ ra quan tưởng phổ, cả hai đã không dám tuỳ tiện nêu ý kiến nữa, họ đã quyết định giao tất cả cho Ngô Thăng định đoạt. Kể cả khi Ngô Thăng suy nghĩ suốt đêm, hai vợ chồng họ lại trở về phòng thao luyện thủ pháp khống chế lửa, nhớ lại quá trình luyện đan.
Trải qua cân nhắc kỹ lưỡng, Cuối cùng Ngô Thăng đã lựa chọn phương án quan tưởng một lần duy nhất—— thật ra thì hắn cũng không có quyền lựa chọn gì cả. Chỉ cần cả viên phế đan bị Thái Cực Cầu chuyển hóa, cho dù hắn không kịp đếm rõ từng loại Linh Sa thì kết quả vẫn sẽ tiếp cận con số thực tế nhất.
Cơ hội chỉ có một lần, cùng với sự chứng kiến của hai vợ chồng Kim Vô Huyễn, Ngô Thăng đặt viên phế đan ở trước đầu gối, ngưng thần quan tưởng.
Linh đan mặc dù đã hỏng, nhưng đó là nói về công dụng gia tăng tuổi thọ của nó đã không thể đạt thành, còn linh lực ẩn chứa trong đan dược vẫn dồi dào vô cùng. Linh lực được chuyển hóa thành đủ mọi màu sắc Linh Sa chảy vào hải đảo trong Khí Hải, ước chừng hơn 1000 hạt.
Nhất thời Ngô Thăng bỗng có một cảm giác quen thuộc, cẩn thận nghĩ lại, hắn nhận ra số lượng Linh Sa của viên phế đan này rất tương tự viên linh đan lấy được từ chỗ Tụ Long Sơn Nhân!
Thì ra viên đan dược kia cũng là Trường Thọ Đan, thậm chí nó có thể là chính phẩm từ Tắc Hạ Học Cung!
Bởi vì đã có một lần kinh nghiệm, Ngô Thăng phân tích viên phế đan này dễ dàng hơn rất nhiều. Hắn múa bút như bay, ghi chép lại toàn bộ phát sinh trong khi quan tưởng, những chỗ không thấy rõ ràng thì lại đối chiếu với viên đan lần trước để đưa ra một con số tương đối chuẩn xác.
Kết quả cuối cùng, tổng cộng Linh Sa có hơn 1300 hạt với hơn 30 loại màu sắc, mỗi loại Linh Sa số lượng từ 10 đến hơn 100 hạt không đồng đều.
Sau đó, Ngô Thăng lại lấy kết quả này so sánh với quan tưởng phổ của từng loại linh dược, từ đó phân tích ra thành phần và tỷ lệ của dược liệu bên trong linh đan, cuối cùng hắn đã đưa ra một bản phối chế tương đối hoàn chỉnh.
Trong đó, 2 vị chủ dược tỷ lệ là 24% và 37%, 10 vị thuốc phụ chiếm khoảng 21%. Số còn lại do năm loại Linh Sa có màu sắc không giống với bất kỳ loại nào trong các bản quan tưởng phổ. Chắc chắn chúng phải là những loại Linh Sa mới hình thành từ trong quá trình pha trộn và luyện chế các loại linh tài
Tiếp đó mọi người lại đối chiếu với phân lượng chính xác của hai vị chủ dược trong trí nhớ của Kim Vô Huyễn, nhờ vậy lại suy ra phân lượng của các tài liệu khác. Đến đây họ đã gần như suy luận ra đầy đủ cách điều chế Thanh Linh Đan, thiếu hụt duy nhất là tỷ lệ điều chế của 3 loại mật ong, muối tinh và nước. Vấn đề này giao cho Thẩm nương đi thử nghiệm điều phối, nàng cũng đã pha chế ra hơn 10 loại dung dịch, sau cùng họ quyết định lựa chọn 3 loại có khả năng tương đối cao.
Cuối cùng, đan phương đã xuất hiện ba loại tỷ lệ pha trộn, khi luyện chế sẽ phải thử nghiệm từng loại một, xác xuất thành công hạ xuống so với luyện đan bình thường 1/3. Nói cách khác, nếu như dưới tình huống bình thường luyện đan 3 lượt có thể thành đan 1 viên, thì bọn họ phải cần luyện 9 lượt, nếu như bình thường 5 lần có thể thành đan, bọn họ sẽ cần luyện 15 lần.
Kim Vô Huyễn cảm thấy quá khó khăn, bởi vì linh tài chỉ chuẩn bị được 4 phần mà thôi, nhưng Ngô Thăng cũng đã rất hài lòng —— xác suất chỉ có ý nghĩa trên mặt lý thuyết, còn đối với mỗi một lần luyện đan, kết quả đều chỉ có hai cái khả năng —— thành đan và thất bại, khi chia lẻ mỗi lần luyện đan kết quả vĩnh viễn đều là tỷ lệ 50-50.
Mọi người chia toàn bộ tài liệu theo đúng tỷ lệ Ngô Thăng đã phân tích ra 4 phần, phần thứ nhất trộn với dung dịch thứ nhất, sau đó họ đưa tất cả vào lò luyện đan của Thẩm thị.
Trong những ngày này, Kim Vô Huyễn vẫn luôn cố gắng nhớ lại quá trình luyện đan của Mộc đạo nhân lúc trước, y đã diễn luyện thủ pháp khống chế ngọn lửa, trình tự thêm vào các loại linh dược, tăng giảm chân nguyên không biết bao nhiêu lần. Trên cơ bản y đã tìm lại được cảm giác lúc đó, cho nên lúc luyện đan rất thuận tay.
Ngô Thăng vừa ở một bên hỗ trợ vừa nghiêm túc lắng nghe Kim Vô Huyễn giảng giải, hắn đã sơ bộ nhận thức về quá trình luyện đan.
Quả thật giống như thế nhân thường nói, người có khả năng luyện đan rất ít. Người luyện đan cần phải khống chế thật tỉ mỉ luồng linh lực của mỗi một chủng tài liệu lưu chuyển, cảm giác chính xác độ dung hợp giữa các linh tài. Điều đó yêu cầu đan sư phải có sự mẫn cảm mạnh mẽ với tính chất của các loại linh lực, đây được gọi là thiên phú.
Về phương diện này, Kim Vô Huyễn cũng có đôi chút thiên phú, có lẽ đây là một trong những nguyên nhân y được Mộc đạo nhân nhận làm đệ tử. Nhưng nói thật ra, thiên phú của y rất bình thường, cảm giác của y với linh lực vẫn còn rất thô ráp.
Còn bản thân có thiên phú hay không, Ngô Thăng cũng không rõ, nhưng hắn biết rõ một điều.
- Cảm giác của ta với linh lực sẽ mạnh hơn bất kỳ ai, bởi vì ta có một cái Thái Cực Cầu. -