Sau đó Ngài còn tạo ra nhiều vị thiên thần, phụ trách các chức vụ khác nhau, tổng cộng có 7777 vị thiên thần được tạo ra.
Tất cả sống tại một nơi gọi là Thiên Quốc.
Thời gian này kéo dài rất lâu, khoảng thời gian này được gọi là kỷ thứ nhất, các vị thiên thần giúp Đấng Tạo Hóa trải truốt lại toàn bộ vũ trụ, mọi sự mọi vật. Khi vũ trụ đã đi vào ổn định, Đấng Tạo Hóa quyết định tạo ra những sinh mệnh sống khác. Ngài muốn các sự sống sinh sôi lan tràn khắp vũ trụ.
Một hành tinh được chọn làm nơi Ngài chế tạo sự sống, chính là Đại Thế Giới ngày nay.
Trên Đại Thế Giới, vạn vật sinh sôi tốt đẹp.
Cho đến một ngày, Đấng Tạo Hóa phái Quang Minh xuống trông coi Đại Thế Giới. Quang Minh cảm thấy không phục, lòng sinh oán hận, hắn cho rằng vị trí của hắn là kế thừa Đấng Tạo Hóa. Hắn liền mê hoặc các vị thiên thần dưới trướng tạo phản.
Vào đúng ngày hắn phải xuống Đại Thế Giới, hắn phát động binh biến. Đi theo hắn có tổng cộng 1080 vị thiên thần.
Sự kiện này đánh dấu kỷ thứ nhất Sáng Tạo kết thúc, mở ra kỷ thứ hai Trận Chiến Giữa Thiên Đường Và Địa Ngục.
Quang Minh và 1080 thiên thần phản bội bị xóa tên khỏi Thiên Quốc. Quang Minh mất đi tên, bị gọi với nhiều cái tên như Kẻ Phản Bội, Kẻ Mê Hoặc, Thiên Thần Sa Ngã, Vua Địa Ngục…
Đấng Tạo Hóa đã phái Tổng Lãnh Thiên Thần Trật Tự tiêu diệt Kẻ Phản Bội. Trật Tự được đổi tên thành Công Bằng Và Trừng Phạt, thống lĩnh 1247 vị thiên thần đánh đuổi quân đoàn Địa Ngục khỏi Thiên Quốc.
Trận chiến này kéo dài vô cùng vô tận cho đến khi loài phản bội bị tiêu diệt hoàn toàn. Rất nhiều thiên thần đã ngã xuống. Không đếm hết số tinh tú, thiên hà, hắc động… bị hủy, một phần ba vũ trụ bị đánh trở lại nguyên bản.
Cuối cùng Tổng Lãnh Thiên Thần Công Bằng Và Trừng Phạt cầm trong tay Cán Cân Công Lý cân đo tội ác của Kẻ Phản Bội, tội ác của hắn làm đĩa cân nghiêng hẳn sang một bên, tội không thể tha thứ. Tổng Lãnh Thiên Thần vung lên thanh kiếm đâm xuyên tim Kẻ Phản Bội.
Kẻ Phản Bội ôm lưỡi kiếm gãy chạy xuống Đại Thế Giới, cắm rễ vào trong lòng Đại Thế Giới.
Quân đoàn Thiên Đường truy sát Kẻ Phản Bội và bè lũ của hắn tới Đại Thế Giới. Kẻ Phản Bội đã dùng tính mạng của toàn bộ Đại Thế Giới làm con tin. Vì thương xót thương sinh, là những tạo vật hoàn hảo được Thượng Đế tạo ra, Ngài Tổng Lãnh quyết định tạm dừng cuộc chiến.
Kỷ thứ hai đến đây tạm kết thúc, mở ra kỷ thứ ba Thay Đổi và Phát Triển.
Phần tiếp theo giảng giải về thiên thần.
Thiên thần được Đấng Tạo Hóa dùng đại đạo tạo ra, họ là những sinh mệnh hoàn hảo vô khuyết, thuần túy đại đạo, bất tử bất diệt trừ khi đại đạo bị diệt hết.
Nhưng khi đáp xuống Đại Thế Giới, bọn họ không bổ sung được đại đạo cộng thêm những vết thương trong trận chiến, khí trên Đại Thế Giới không tinh khiết, lâu ngày khiến cho thân thể bọn họ sinh ra tỳ vết. Nếu cứ kéo dài bọn họ sẽ mất đi sự bất tử bất diệt.
Nhưng trận chiến với quân đoàn Địa Ngục chỉ sợ còn phải kéo dài rất lâu nên Ngài Tổng Lãnh Thiên Thần đã có những quyết định quan trọng:
Thứ nhất tạo ra Thần giới làm căn cứ đối chọi với Ma giới.
Thứ hai để các thiên thần sinh ra hậu đại, sau này gọi là Thần tộc. Những thiên thần ban đầu được gọi là thiên thần hoặc Nguyên Thủy Thần tộc, hậu đại của bọn họ được gọi là Cổ Thần tộc để phân biệt với Tân Thần tộc xuất hiện ở kỷ thứ 70.
Thứ ba là để các thiên thần không bị ô nhiễm bởi ngoại giới, họ phải chìm vào trong ngủ say, chờ đợi trận chiến cuối cùng.
Tiếp theo là nói đến cách Thần tộc sinh hậu đại. Không giống như các sinh vật khác sinh sản trực tiếp, Thần tộc sinh sản gián tiếp, thậm chí là sinh sản vô tính nhưng sau này sinh sản vô tính đã cho thấy hại nhiều hơn lợi nên sinh sản vô tính không được dùng nữa.
Thần tộc nam và nữ sẽ tách ra một phần tinh khí và cho chúng kết hợp lại với nhau trong lồng ấp. Ấu Thần sẽ phát triển đến khi đạt yêu cầu xuất sinh. Thời gian trong lồng ấp có thể kéo dài 20 năm, 50 năm, 100 năm, thậm chí ngàn năm, vạn năm… tùy thuộc hoàn cảnh. Đôi khi chiến trường cấp bách cần bổ sung binh lực, các ấu Thần sẽ được sinh ra sớm.
Nhưng dù ấp có kéo dài bao nhiêu năm thì các ấu Thần sẽ chỉ phát triển đến hình dáng tương đương thiếu niên Nhân tộc 12 tuổi rồi dừng lại. Chờ thời cơ xuất sinh.
Khi ấu Thần sinh ra, bọn họ thân thể không còn thuần túy đại đạo nữa, bọn họ phải bước vào con đường học tập và tu luyện để được như các thiên thần.
Nhưng càng thế hệ sau, độ thuần túy càng xa tổ tiên, đến mức bọn họ không thể nói chuyện được với tổ tiên nữa.
Nên nhớ Nguyên Thủy Thần tộc được tạo ra từ đại đạo, bọn họ bẩm sinh đã nắm giữ đại đạo, nói chuyện với nhau bằng đạo ngữ, dùng đại đạo như một lẽ tự nhiên. Những con cháu thế hệ gần, thân thể tương đối tinh khiết cách đại đạo cũng chỉ một bước nửa bước nên cũng không quá khó để nhập đạo.
Nhưng nhiều thế hệ sau, thân thể đã vẩn đục đến mức đáng lo ngại, bọn họ không thể dùng đạo ngữ dẫn đến việc không thể giao tiếp với thế hệ trước. Không thể trao đổi với nhau, tương đương cắt đứt truyền thừa, điều này vô cùng nguy hiểm.
Thế hệ trước cũng không biết cách chỉ dạy, hướng dẫn con cháu nhập đạo, giống như việc sinh ra đã ở trên đỉnh núi, thì làm sao biết cách leo núi.
Thần tộc bước vào giai đoạn khủng hoảng. Đây là kỷ thứ tư Khủng Hoảng.
Bấy giờ Thần tộc xuất hiện một người gọi là Hàn Thuyên, ông là người có trí tuệ siêu phàm, hai mắt như sao trời. Ông đã tạo ra một loại chữ tượng hình minh họa thế giới vạn vật, giản lược đạo ngữ tạo ra cách phát âm dễ học hơn. Ngôn ngữ này được gọi là Hàn Ngữ.
Nhờ có Hàn Ngữ mà các thế hệ có thể giao tiếp với nhau, giải quyết khủng hoảng Thần tộc.
Hàn Thuyên còn có nhiều đóng góp trong nghệ thuật, thơ ca, kiến trúc, chế tạo công cụ, tạo ra lịch dựa theo chuyển động của mặt trăng, xây dựng hệ thống học đường, xây dựng hệ thống tu luyện… ông trở thành ông tổ của nhiều ngành nghề, có thể nói Hàn Thuyên bách nghệ bách tinh, không gì không biết.
Ông thường được gọi là Hàn phu tử, Thần tộc ca ngợi ông là Vạn thế chi sư. Đóng góp của ông với Thần tộc là không thể kể siết.
Trong lần đầu diện kiến Tổng Lãnh Thiên Thần, ngài ấy khen Hàn Thuyên:
“Không có Hàn Thuyên, Thần tộc vô minh.”
Lời khen này đủ cho thấy Tổng Lãnh Thiên Thần đánh giá Hàn Thuyên cao thế nào. Cũng trong dịp này Tổng Lãnh Thiên Thần đích thân phong thần cho Hàn Thuyên, mở đầu cho kỷ nguyên phong thần.
Hàn Thuyên trở thành Cổ Thần đầu tiên, tất nhiên thời đó bọn họ không gọi là Cổ Thần. Nhưng vào kỷ thứ 70, một tuyệt thế trí giả xuất hiện khiến Hàn Thuyên cũng phải than thở:
“Một ngàn năm của ta không bằng một ngày của hắn.”
Kẻ này chính là một tên Nhân tộc được Thần tộc mang về, hắn tự gọi mình là Thảo, câu cửa miệng hắn hay nói là:
“Ta chỉ là một ngọn cỏ theo gió lay.”
Thảo đã mang lại những cải cách sâu rộng cho Thần tộc giúp Thần tộc đẩy nhanh quá trình phát triển lên vài kỷ nguyên.
Công trình lớn đầu tiên của ông là tạo ra chữ tượng thanh.
Chữ tượng hình của Hàn Thuyên, đã giải quyết được tất cả vấn đề của một ngôn ngữ, nhưng chữ tượng hình không dễ học. Chữ tượng hình dù sao cũng là đại đạo giản lược, bên trong chất chứa đại lượng đạo lý không phải dễ học, mà các thế hệ Thần tộc càng về sau càng xa đại đạo, bọn họ cần một ngôn ngữ dễ hơn nữa.
Chữ tượng thanh ra đời đã đáp ứng được yêu cầu này, chữ này được gọi là Tân Ngữ, phân biệt với đạo ngữ và Hàn Ngữ.
Tân Ngữ ra đời có thể nói là trong chớp mắt quét sạch Hàn Ngữ, tất cả văn bản nhanh chóng bị thay bằng Tân Ngữ, giảng dạy, học tập, giao tiếp… tất cả đều dùng Tân Ngữ.
Phát minh tiếp theo của Thảo là giấy, trước đó đều dùng thẻ tre, da thú xa hơn là dùng đá, đất sét để ghi lại chữ viết, nhưng từ khi giấy ra đời những thứ kia đều đi vào dĩ vãng.
Thảo cũng có nhiều phát minh trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, trước đó Hàn Thuyên đã đặt nền móng vững chắc cho lĩnh vực này, nhưng đến thời của Thảo tiểu thủ công nghiệp phát triển rực rỡ từ dệt may, len, nghề mộc, điêu khắc, thực phẩm chế biến…
Đặc biệt có một phát minh gây khá nhiều tranh cãi về tính thực dụng, đó là rượu! một loại chất lỏng được lên men tự nhiên từ mật trái cây. Những người khác thì không biết, chứ với những kẻ bợm rượu như Tửu Lão thì đây chính là phát minh vĩ đại nhất.
Trước đó các kỷ nguyên đều bắt đầu và kết thúc bằng sự kiện, nhưng từ kỷ nguyên thứ 70 trở đi, một kỷ nguyên tính bằng 1 triệu năm.
Lịch thời gian cũng thay đổi, Hàn Thuyên dùng lịch mặt trăng để tính thời gian, Thảo lại dùng lịch mặt trời để tính thời gian. Vì nhiều lý do mà lịch mới được chấp nhận như là chính thống, lịch mặt trăng trở thành phụ.
Thảo cũng chuẩn hóa các đơn vị đo lường từ thời gian, trọng lượng, độ dài… nhờ sự chuẩn hóa này mà mọi người có thể thống nhất với nhau các số liệu từ đó tác động đến quá trình xây dựng, chế tác, nghiên cứu…
Thảo còn đóng góp nhiều trong trồng trọt và chăn nuôi, ông đã lai giống, thuần hóa nhiều cây trồng và vật nuôi.
Thành tựu của Thảo trải dài trên tất cả lĩnh vực, có thể nói chỉ cần ông nghiên cứu thì ắt có thành quả. Nhận xét về Thảo, Tổng Lãnh Thiên Thần chỉ nói bốn chữ:
“Trí tuyệt thiên hạ!”
Tồn tại của Thảo tại Thần giới là một đặc thù.
Các Thần tộc phong thần trong thời kỳ này được gọi là Tân Thần, phân biệt với Nguyên Thủy Thần và Cổ Thần trong thời kỳ Hàn Thuyên.