Xe ngựa đi như rùa bò, Lão Liêu còn chửi mắng mã phu nói làm sao đánh xe nhanh thế, muốn xe bay lên trời phải không?
Vân Tranh lúc này đang đi cuối cùng đội ngũ, đeo mặt nạ lên, không còn mặt mũi thấy ai nữa, thế này trong mắt láng giếng xung quanh, Vân gia triệt để thành ác bá mất rồi.
Đi mãi mới tới được Lục gia, không ngờ Lục gia bày thế trận càng khiến Vân Tranh há mồm, đến hôm gả khuê nữ cũng không phô trương thế này, cách nhà ba dặm đã có nha hoàn phó dịch đứng thành hàng nghênh tiếp Tam tiểu thư về nhà, xếp hàng tới tận cửa.
Lão trượng nhân Lục Tịch cười chỉ thấy răng không thấy mắt đâu nữa, nhạc trượng nữ tế còn chưa kịp chào hỏi thì một đám phụ nhân váy xanh váy đỏ đã kéo tới, vây quanh Lục Khinh Doanh, Tiểu Trùng cùng hếch mũi lên trời bước theo tiểu thư đi bằng đại môn vào nhà, không còn chút quy củ nào cả.
- Làm nhạc trượng chê cười rồi. Vân Tranh bỏ mặt nạ xuống, chỉ chỉ về phía Lục Khinh Doanh cười khổ:
Lục Tịch cười khà khà xua tay: - Khinh Doanh làm vậy mới thể hiện được khí thế Lục gia, không sao hết, gà mái đẻ trứng còn cục tác vài tiếng mà, Khinh Doanh nó khổ tận cam lai, kệ nó phóng túng một hồi.
- Nhạc trượng không trách là được, giờ trong nhà đều túy ý nàng, con nào dám nói gì.
Lục Khinh Doanh vào đại sảnh thấy Lục ông ngồi trên thái sư ỷ thì nhào vào lòng khóc lớn, khiến Lục gia từ lớn tới nhỏ khóc theo.
Lục ông lau nước mắt cho trọng tôn nữ, cười ha hả: - Ngoan, ngoan, cháu nay đã có thai rồi, phải tâm bình khí hòa, chẳng may xảy ra chuyện ngoài ý muốn thì chuyện vui thành chuyện buồn.
- Dạ, cháu biết. Lục Khinh Doanh nín khóc ngay, giờ chỉ cần nói câu gì liên quan tới đứa bé là nàng nghe lời cực, gọi: - Tiểu Trùng, bảo nha hoàn mang lễ vật lên đây.
Vân Tranh bị gạt sang bên lề nhưng vẫn cứ cười toét miệng như thằng ngốc, nhìn Lục Khinh Doanh đem báu vật trong nhà tới cũng chẳng tiếc, còn nghĩ, mới có một đứa, phải sinh thêm vài đứa nữa, nay lão bà đã hai mốt, là tuổi nữ nhân trưởng thành trọn vẹn, cứ hai năm sinh một đứa, hai chục năm thôi là lập được đội bóng rồi.
- Bạch ngọc một đôi, mã não nguyên miếng, xuyến vàng bốn cặp, đá mắt mèo năm viên, Tô hợp hương một hộp..
Lục quản gia lớn tiếng đọc lễ vật, đám phụ nhân ở dưới tấm tắc mãi không thôi, lễ tạ ơn quý trọng thế này ở đất Thục cực kỳ hiếm thấy, hai vị tiểu thư trước kia có thai về nhà đáp tạ mẹ đẻ cũng không mang theo lễ vật lớn thế này.
Có điều Vân Tranh phát hiện mặt Lục Tịch rất khó coi, như muốn khóc, thế là sao nhỉ, nhận quà thì phải vui mừng mới đúng chứ?
Lục ông nhanh chóng cho đáp án, xoa xoa đầu Lục Khinh Doanh: - Đúng là nữ nhi hướng ngoại mà, khuê nữ về nhà mẹ đẻ bắt chẹt thế này thật hiếm. Thôi vậy, cháu là viên minh châu Lục gia, ông rộng rãi thế nào cũng không phải là bại gia, con quỷ nhỏ, sớm biết cháu muốn gì, đào hoa trang ba dặm của cháu, lúc nào cũng chê lão tổ tông hẹp hòi, lần này còn nói thế nữa thôi.
Nhìn thấy Lục Khinh Doanh nhu con mèo nhỏ nép vào lòng Lục ông làm nũng, tới lượt Vân Tranh cười tới chỉ thấy răng không thấy mắt, trời ơi lão bà thế này đúng là giá trị, không uổng công mình giết bao nhiêu đám mũi trâu cưới về, té ra lễ tạ còn có cả đáp lễ, ba dặm đào hoa trang này ở chỗ tinh hoa của Thành Đô, không tính giá tiền, muốn tiền cũng chẳng mua nổi, mảnh đất này chẳng cần làm gì, cứ trồng đào thôi đã đủ tượng trưng cho thân phận, vẫn biết lão bà mình thèm nó từ lâu, lần này mượn cái bụng bầu đắc thủ, đúng là phải ăn mừng.
Sau khi lễ vật mang lên xong, Lục Khinh Doanh được đám phụ nhân xúm quanh đưa vào hậu viện, Lục ông gọi Vân Tranh tới thủy tạ uống trà trò chuyện.
Lục Hòe hôm nay cũng ở nhà, sau khi khen ngợi Vân Tranh một hồi nói: - Bài Mãn Giang Hồng của ngươi rất hay, chỉ tiếc câu Hào Thủy sỉ lại không hợp với chỉnh thế, quá gượng ép, hủy mất bài thơ hay.
Vân Tranh chắp tay khiêm tốn nhận sai, người ta đúng là bậc đại gia, nhìn một cái đã thấy ngay sơ hở trong bài thơ.
Nhắc tới chủ đề này, Lục ông trầm ngâm: - Văn nhân xưa nay áp chế võ nhân kỳ thực là xuất phát từ tâm lý sợ hãi, càng sợ càng chèn ép, vì ai cũng biết một đạo lý, mạnh mồm tới mấy cũng không thể cứng bằng cương đao.
- Nay cháu là văn nhân lại theo nghiệp võ, võ nhân chưa chắc đã thừa nhận mà văn nhân cũng đề phòng, nhìn khắp lịch sử, các bậc danh tướng đều là văn võ kiêm toàn, nhưng cũng là khó khống chế nhất, triều đình xưa nay không đủ dũng khí dùng người tài, e cháu sẽ bị triệu lên kinh. Thái tổ bản triều cũng là võ tướng, cho nên biết võ tướng lợi hại ra sao, định ra cách cục chính trị trọng văn khinh võ. Lần này cháu vì nước gian khổ công cao, có thể lui về xin nghỉ rồi, không ai dám nói một câu đâu, nhất là Khinh Doanh có thai, cháu đi nó cũng đi theo, dọc đường không an toàn.
- Bây giờ nước Liêu ngày một suy bại, bị các bộ tộc khác quật khởi ép ứng phó luôn tay, Tây Hạ thì bị cháu đại náo một hồi, muốn khôi phục nguyên khí phải mất mười năm, Giác Tư La ở Thanh Đường là người chỉ muốn bình an, Đại Tống ở hoàn cảnh thế này hẳn là vững như Thái Sơn mới phải.
Vân Tranh chắp tay nói: - Lão tổ tông phân tích chí phải, thế nhưng quan gia Đại Tống ta luôn cường điệu cùng sĩ đại phu trị vì thiên hạ, chặn đứng khả năng làm loạn của võ nhân, đồng thời gây tổn hại tới quốc gia mà ai ai cũng thấy, một quốc gia không có quốc phòng đủ cường đại bỏ vệ, dù phồn hoa tới mấy cũng như lâu đài xây trên cát thôi.
- Nay Đại Tống đã tới mức không thay đổi không được, ngay cả Trương phủ tôn cũng đã cảm nhận được nguy cơ, nhân sĩ cao minh khác nhất định cũng có nhận thức như thế, Khánh Lịch tân chính cho thấy điều đó, đây là thời cơ tốt nhất cũng là cơ hội cuối cùng rồi.
Lục Hòe cau mày trầm tư: - Chẳng lẽ trừ Tây Hạ và nước Liêu, chúng ta còn kẻ địch khác?
- Đúng thế đấy ạ, thực tế càng lên phía bắc thì thời tiết càng khắc nghiệt, con người vì thế càng thêm hung dữ, sa mạc có người Hồi Hột, phía đông có người Thất Vi, nhưng đáng sợ hơn cả là người Nữ Chân, cháu ở Tây Hạ nghe người dân nơi đó kháo nhau về sự khủng bố của tộc người này, ngay cả dân tộc thảo nguyên cũng phải kiềng nề họ. Nước Liêu mấy năm qua sở dĩ yên tĩnh hơn nhiều vì tộc Nữ Chân và Thất Vi không ngừng tạo phản, phản đối thu thuế ngày một nặng nề.
- Khi nói chuyện với Phú Bật ở Kinh Triệu phủ, ông ấy có nói phương bắc ngày càng lạnh, da thú trên người đã không chống chịu nổi cái lạnh, bọn họ di chuyển tới phía nam cư trú ngày một nhiều. Nếu cháu không tới phương bắc một chuyến thực sự không cảm thụ được sự nguy cấp này, di chuyển về phương nam dần trở thành vấn đề sinh tử tồn vong với bọn họ rồi, vấn đề sinh tồn không có đường thương lượng, không phải đơn giản dựa vào vài chục vạn quan tiền, vài chục vạn xếp lụa mà nghị hòa được nữa.