Tần Châu đã bị tàn phá tan hoang rồi, muốn khôi phục lại phải mất năm bảy năm, không cần làm thêm gì nữa, nước Tống trong thời gian ngắn không có khả năng gây phiền toái cho Đại Hạ.
Nghĩ tới quân lệnh, Trương Trắc chỉ biết ngửa mặt thở dài, tính toán của tướng quốc là đúng, nhưng muốn đoạt cái ăn trong miệng Vân Tranh không dễ, nhìn vào bố trí quân sự của Tần Châu là thấy, đây đúng là võ tướng của nước Tống, không phải là loại quan văn cầm quân.
Đã tiến vào Tần Châu mười ngày, Trương Trắc không cho rằng mình có thể giữ bí mật nữa, cho nên bỏ biện pháp bảo mật, hành quân công khai giữa ban ngày.
Tướng ở ngoài có lệnh có thể không tuân theo, hảo nam nhi của Đại Hạ không thể dùng lãng phí trong cuộc công thành chiến, nếu mình tấn công một dải giữa Tần Châu và Tần Vương Xuyên, cắt đứt liên kết của Vân Tranh với Tần Vương Xuyên, không tin y có thể trốn mãi ở trong thành không ra.
Chỉ cần Vân Tranh điều động quân đội, dưới sự quấy nhiễu của kỵ binh, thế nào cũng kiếm được cơ hội tấn công Trần Thương, vì thế Trương Trắc lựa chọn mục tiêu đột kích là Lũng Thành.
Lũng Thành còn có tên gọi " Oa hoàng cố lý", có nghĩa là nơi Nữ Oa Nương Nương sinh ra, nằm trên con đường tơ lụa cổ nên là nơi binh gia ắt phải tranh, Nhai Đình thời Tam Quốc cũng nằm ở đây, nơi này là trọng trận đấu tiên từ Trường An qua Quan Trung vào Tần Châu, là một trong bốn trọng trấn thời Tần.
Toàn bộ người Tống ở phía tây Tần Châu đã bị Vân Tranh chuyển sang phía đông, phải vòng qua thành Tần Châu, nếu tấn công Lũng Thành thành công, Trương Trắc sẽ tập kích Trần Thương đạo như quân lệnh, nếu không thành công, hắn sẽ rút ngay.
Khi đại quân đi qua Hàn Vương cốc, thám báo không ngừng báo về có lang yên bốc lên ở các ngọn núi, nơi dày nhất có tới sáu cột.
Bộ tướng Lý Thanh từ phương xa cưỡi ngựa tới bẩm báo: - Bẩm tướng quân, quân Tống bố trận ở cửa cốc phía trước, bộ kỵ không dưới ba vạn, đi hay ở, xin tướng quân cho lệnh.
- Có kết trại không?
- Đã bố trí rào chắn.
- Hậu quân ra sao?
Trương Trắc vừa hỏi câu này thì phía Hàn Vương cốc truyền tới tiếng nổ kinh thiên động địa, vô số đá lớn từ hai bên sườn núi rơi xuống lấp kín đường lui của chính quân Tống, cười gằn: - Chẳng trách Vân Tranh định tử chiến với ta ở đây.
Địa hình Hàn Vương cốc bất lợi cho kỵ binh tác chiến, đồi núi mấp mô làm chiến mã không thể mặc sức tung vó, khi chiến mã vừa mới tăng tốc vì gặp phải đồi núi phải giảm tốc, nên lực xung kích của kỵ binh sẽ giáp ba thành.
Trương Trắc là mãnh tướng sa trường, chỉ liếc mắt một cái là ghi nhớ hết bố cục của Vân Tranh, rào chắn, hố bẫy, thương trận, thuẫn trận rồi nỏ tiễn, hai cánh là số ít kỵ binh, đằng sau là bản trận được xếp trên ngọn đồi, có thể quan sát được toàn bộ chiến trường, do giáp sĩ hạng nặng bảo vệ, sau ngọn đồi nhìn không rõ, nhưng chắc chắn còn có đội dự bị.
Không hề có bất kỳ một dấu hiệu nào báo trước, kỵ binh của Lý Thanh rầm rập xông tới.
Cái thời đợi hai quân dàn trận xong xuôi sau đó mới lao vào đánh nhau cho tới chết là thời Xuân Thu, đến thời Chiến Quốc người ta không làm cái trò ngu ngốc đó nữa, chiến tranh từ đó trở đi không cần bất kỳ lý do hay cái cớ gì cả, chỉ cần có lợi cho mình, bất kể lúc nào cũng có thể đánh.
Trương Trắc cần làm rõ sức chiến đấu của Vân Tranh, Bát Hỉ quân do Lý Thanh suất lính là lựa chọn tốt nhất, những kẻ này có người Đảng Hạng, có người Hán, đều chung một cái tên, là tội tù, chỉ cần có ba cái đầu địch sẽ được chuyển thành chiến sĩ.
Hơn ba nghìn chín mã từ ngọn đồi thấp lao xuống, vó ngựa như sấm, mắt thấy sắp tiến vào phạm vi công kích của nỏ tám trâu, Bát Hỉ quân đột nhiên tách ra làm hai, một số chiến mã không người buộc cành cây vào đuôi lao thẳng về khoảng đất trống ở tiền trận của quân Tống.
Cành cây làm bụi đất bốc mù mịt, tầm nhìn chớp mắt giảm xuất rất nhiều.
Bát Hỉ quân đưa tay bịt mũi, theo sát sau chiến mã, bên tai nghe tiếng ngựa hí vang ngã xuống, tiếng nỏ tám trâu rít như tử thần đòi mạng, thấy kỵ sĩ bên cạnh bị nỏ thương kéo đi, không hề sợ hãi.
Vân Tranh nhìn đám bụi mù che khuất tầm nhìn, nói với mấy thiếu niên đứng sau: - Người Tây Hạ có lẽ không chế ra được những vũ khí tinh diệu, nhưng dân tộc này sinh ra trong chiến hỏa, bọn họ dựa vào những kỹ năng đơn giản, phát huy tới cực điểm, cho nên trước nay luôn giành thắng lợi trước quân ta dù bị áp đảo về quân số và trang bị, đám tiểu tử các ngươi còn chưa có tư cách coi thường người ta.
Khương Triết nhìn đám thiếu niên hừ một tiếng, phất cờ, thương thủ lập tức ngồi xuống, nỏ thủ phía sau nằm xuống, chân đạp nỏ giơ lên, bắn thẳng lên trời, góc độ đã đo đạc trước, nên họ không cần nhìn, chỉ cần liên tục bắn ra năm mũi nỏ.
Bụi tan dần, khuôn mặt hung dữ của người Tây Hạ xuất hiện, chiến mã mở đường đã chết sạch.
Lý Thanh đếm nhẩm trong miệng, khi đếm đến mười liền ghìm cương, toàn bộ Bát Hỉ quân phòng qua người, quay đầu ngựa, nhân lúc bụi mù chưa tan hết, quay trở lại.
Vân Tranh vì chiếu cố quân sĩ lần đầu lên chiến trường, chuyên môn an bài lão binh của Vũ Thắng ở phía trước, đối diện với kỵ binh hung mãnh, mặt không đổi sắc.
- Đừng sợ, nghe khẩu lệnh, trường thương nâng chéo, đuôi thương chống đất, không cần làm gì hết, giữ chắc thương! Lặp lại lần nữa, trường thương nâng chéo... Đội chính ra sức hô lớn, liên tục lặp lại lời mình, đám tân binh nhắm tịt mắt, cắn chặt răng giơ thương lên, tạo thành thương trận như nhím, nghe thấy tiếng tên bắn bay vù vù bên tai.
- Trụ vững, trụ vững! Kệ bọn chúng tự đâm đầu vào, địch không chết sắp hết rồi, đây chỉ là đám cảm tử mở đường... Đội chính thấy quân Tây Hạ ngay cả bạch vũ tiễn cũng không bắn ra, chứng tỏ đám này đi nạp mạng, lớn tiếng hô trấn an tân binh:
Một tân binh vừa hé mắt ra, nhìn thấy chiến mã địch còn cách mười bước hoảng sợ nhắm tịt lại, cắn chặt răng giữ cán thương, chỉ cảm giác mũi thương đâm xuyên qua thứ gì đó nặng nề, máu tươi phun đầy mặt, hắn cúi đầu xuống, mười ngón chân bấu chằm vào đất, giữ lấy cây thương bị lún vào đất tới một tấc.
Bụi tan hết, một lần va chạm, hai nghìn kỵ binh Tây Hạ táng mạng, chiến trường như ruộng lúa mạch, tên chi chít khắp nơi, xông được vào quân trận của quân Tống chỉ có hơn trăm kỵ binh mà thôi.
Tân binh mở mắt ra, một khuôn mặt râu ria xồm xoàm chỉ cách mình chưa tới ba tấc, la toáng lên, sờ tay vào hông, còn chưa kịp rút đao thì cái đầu kia gục xuống, máu nhỏ ròng ròng lên mặt, thì ra là đã chết rồi.
Quân hầu trên cùng quát lớn một tiếng, thuẫn đao thủ chậm rãi đi lên chiến trường, bất kể kẻ địch đã chết hay chưa đều cẩn thận bồi thêm một đao.
Lý Thanh liếm cánh môi khô cong, nỏ tiễn của quân Tống quá cường đại, nhìn thế nào cũng thấy giống thần tí nỏ của Tây Hạ, nhất là khi lên dây đều lấy chân dẫm cánh cung mượn lực.
Trương Trắc lạnh lùng đứng nhìn một lúc rồi mỉm cười đi tới trước quân trận, dùng roi ngựa chỉ phía trước: - Nhìn thấy chưa, đây chính là quân Tống hiện tại, bọn chúng đã trưởng thành tới mức dám cùng chúng ta dã chiến rồi, các ngươi có sợ không? Mạc Lỗ Cáp, ngươi có dám xung trận không?
Mạc Lỗ Cáp mặt đen xì chỉ lạnh lùng gật đầu rồi trở về trận, nói với bộ hạ vài câu, đổi thuẫn tròn to hơn rồi dẫn đội ngũ chậm rãi tiến lên, bọn chúng khác với Bát Hỉ quân, Bát Hỉ quân chỉ có giáp da, nhưng bọn chúng thậm chí ngay cả chiến mã cũng được khoác giáp xích, đầu ngựa chỉ lộ ra hai mắt, cực kỳ hung hãn.
Trước kia Mạc Lỗ Cáp rất ít dẫn bộ hạ xung trận, một khi xung trận là phá địch, thiếp giáp kỵ binh như thế ở Tây Hạ cũng chỉ có ba vạn mà thôi.
Sau thiết giáp kỵ là khinh kỵ, dùng lực xung kích uy mãnh của thiết giáp kỵ xé toang chiến tuyến địch, sau đó bao vây chia cắt, dưới tình huống đó, địch trừ toàn quân bị diệt thì không còn kết cục khác.