Nguyễn Trường Quý nhẹ nhàng hít một hơi: “Nếu báo cáo lên thì không phải là sẽ bị bắt lên văn phòng quần chúng chuyên chính hay sao? Rồi bị treo tên trong đại hội phê bình, nói không chừng còn bị đưa vào trại lao động. Bà cũng đừng quản chuyện này, sau này nó có ngồi tù hay không ngồi tù thì cũng không có liên quan tới chúng ta.”
Tôn Tiểu Tuệ: “Làm sao mà không có liên quan được? Bây giờ đang đề xướng vì việc nước quên tình nhà, không thể bởi vì là người thân của mình mà có tâm tư bảo vệ. Đã phạm sai lầm thì phải nhận lấy sự trừng phạt vốn có, chúng ta không thể bao che cho nó…”
Bà ta nói một hơi thì nghe được tiếng ngáy của Nguyễn Trường Quý, biết ông ấy mệt mỏi ngủ thiếp đi, thế là dừng lại không nói nữa. Sau đó bà ta trở mình ngồi dậy, trong lòng suy nghĩ một trận, chậm chạp cũng không thấy buồn ngủ.
Bà ta nghĩ đến để cho Nguyễn Khê ăn một bài học mới được, để hạ uy phong của nó. Bắt nó đến văn phòng quần chúng chuyên chính đánh một trận, để nó bị phê bình hối lỗi trước quần chúng, tốt nhất là kéo nó đi cải tạo lao động, để nó lên công trường ăn nhiều đau khổ một chút!
Tôn Tiểu Tuệ trở mình mấy lần như vậy mới miễn cưỡng ngủ được mấy tiếng.
Ngày hôm sau, khi gà trống còn chưa gáy, bà ta thừa dịp ban đêm đã dậy. Bà ta lén lút cầm lấy đèn pin trong nhà, mò mẫm đi ra ngoài, đi một đường dọc theo đường núi đi tới thôn Kim Quan, lại tìm tới nhà bí thư lữ đoàn.
Nhìn thấy bí thư Vương của thôn Kim Quan, bà ta trực tiếp nói thẳng ý đồ đến: “Có người trộm nho nhà ông thợ may ở lữ đoàn của các anh, trộm một chùm về nhà. Loại không đứng đắn này nếu không sửa trị thì sẽ làm dao động ý chí cách mạng của mọi người!”
Bà ta nói rồi lấy ra một miếng vỏ nho đưa cho bí thư Vương xem: “Đây chính là tang vật, làm chứng cứ đanh thép!”
Bí thư Vương thấy vỏ nho trong tay bà ta, ánh mắt từ từ trầm xuống.
Sáng sớm Nguyễn Khê và Nguyễn Khiết nghe được tiếng gà trống gáy mới rời khỏi giường, rửa mặt nấu cơm làm việc nhà như thường ngày, làm xong xuôi chuyện cơm nước trong nhà thì đi ra cửa, ai cũng bận rộn.
Trước khi Nguyễn Khê đi thì chào hỏi Lưu Hạnh Hoa một tiếng, nói giữa trưa cô sẽ không về ăn cơm.
Đến nhà ông thợ may, trước tiên thì cô không tìm ông thợ may học tay nghề, cũng không nói với ông ấy chuyện học nghề, mà là dọn dẹp trong phòng và bên ngoài một chút. Lúc dọn dẹp sạch sẽ đang muốn ngồi xuống nghỉ ngơi thì ngoài cửa có một người phụ nữ mặc áo ca rô.
Bà ta đứng ở bên ngoài cổng sân chứ chưa bước vào, quay đầu nhìn bên ngoài đợi một hồi, chờ trong khung cửa xuất hiện bóng dáng một cô gái trẻ tuổi, bà ta mới nhẹ nhàng vẫy tay một cái, mới đi qua cửa đi về phía sân.
Sau khi đi vào, người phụ nữ mặc áo ca rô chào hỏi với ông thợ may trước, khuôn mặt khách khí, nói là mình tới may quần áo.
Ông thợ may hắng giọng một cái, đứng dậy khỏi xích đu, dẫn người phụ nữ mặc áo ca rô và cô bé kia đi vào nhà.
Tất nhiên là Nguyễn Khê có mắt nhìn, rửa tay giúp đỡ đãi khách, đi vào nhà bếp cầm hai cái bát sứ trắng, rót cho người phụ nữ mặc áo ca rô và cô con gái đi cùng ba ta một chén nước nóng.
Bưng nước nóng lên phòng chính, người phụ nữ mặc áo ca rô uống nửa bát nước rồi nói: “Đây là con dâu của tôi, không phải dự định vài ngày nữa sẽ kết hôn sao, cho nên phải may mấy bộ quần áo mới. Vải tôi đã mua xong, cũng đều mang tới. Phiền ông xem một chút, làm hai bộ quần áo mặc ngày thường, lại làm một bộ mặc ngày kết hôn, đều phải vui mừng một chút, kiểu dáng đẹp mắt một chút.”