Trông thấy Nhiếp Linh không sao, lúc đó thôi thật muốn khóc to lên vì vui mừng. Cũng mặc kệ nàng nói gì, trực tiếp ôm vào lòng, thổn thức: "Anh còn tưởng rằng em chết rồi!"
Nhiếp Linh vỗ về sau lưng tôi, dịu dàng nói: "Đồ ngốc, anh quên em xuất thân từ đâu à, làm gì chết dễ dàng như vậy?"
Nhiếp Linh có thể nói là tương đối quen thuộc với nơi này, nàng dẫn tôi bò trên tường kép của trần mộ, sang một gian mộ thất khác. Các góc tường gian mộ bên này rất nhiều đèn dầu, ánh lửa tuy yếu ớt nhưng không gian đã khá hơn nhiều so với mộ đạo.
Gian mộ thất này kích thước tương đương gian mộ lúc mới vào, có điều ở chính giữa có thêm một cái quan tài đá.
Tôi quan sát xung quanh, phát hiện gian mộ thất này có đường thông với mộ đạo khác, liền chuẩn bị dẫn Nhiếp Linh tìm đường ra. Nhưng quái lạ là Nhiếp Linh lại đứng bất động trước cái quan tài.
Tôi sửng sốt một chút, hỏi nàng làm sao vậy? Nhiếp Linh lắc đầu nói không có gì, tuy tộ cảm thấy lạ nhưng lúc đó cũng không để bụng. Đúng trong khoảnh khắc tôi quay đầu, đột nhiên có một bóng đen vụt quá từ lối ra của mộ thất.
Tốc độ của cái bóng thật sự rất nhanh, tôi hoảng hốt vội kéo Nhiếp Linh lùi về phía sau một bước. Nàng hỏi tôi có chuyện gì, tôi nói: "Vừa rồi hình như anh trông thấy một bóng đen."
"Bóng đen?" Nhiếp Linh nghe vậy sắc mặt cũng khẽ biến, nói: "Không ổn rồi, chỉ e là Hoàng Bì Tử theo dõi chúng ta."
"Hoàng Bì Tử?" Tôi nghe vậy lập tức liền nhớ tới thảm kịch ở Lưỡng Sơn Khê hơn nửa năm trước. Thậm chí còn thoáng qua ý nghĩ đuổi theo nó làm thịt, nhưng cũng biết chuyện này là bất khả thi.
Đừng nói là hiện tại chúng tôi đang ở hoàn cảnh bất lợi dưới mặt đất, cho dù là ở bên trên, chỉ sợ tôi cũng không đối phó được với Hoàng Bì Tử đã tu luyện trăm năm này.
"Hoàng Bì Tử vào đây bằng cách nào?" Tôi thắc mắc: "Nó không sợ thiết âm trùng sao?"
Nhiếp Linh giải thích: "Thiết âm trùng chỉ hoạt động ở phía ngoài cổ mộ, Hoàng Bì Tử đi vào từ một đường khác."
Tôi nói: "Vậy giờ phải làm sao, nơi này còn lối ra khác nào không?"
Nhiếp Linh nói: "Có, nhưng sẽ nguy hiểm."
Tôi hỏi nàng nguy hiểm thế nào, Nhiếp Linh đáp: "Nếu chúng ta muốn ra ngoài bằng đường khác, thì phải đi qua vị trí trung tâm hầm mộ, nơi đó có một cái hòa mộc hung quan!"
"Hòe mộc hung quan?" Nghe bốn từ này tôi không khỏi cau này, trong cuốn bối túy có ghi lại hầu hết những loại hung quan trên thế gian cùng với đó là cách khắc chế. Nhưng có mấy loại phải cực kỳ thận trọng khi đụng vào, hòe mộc hung quan là một trong số đó.
Trên đời này, quan tài làm bằng gỗ là chuyện bình thường, thế nhưng có một vài loại cây không thể làm quan, hòe mộc là một ví dụ. Từ thời cổ, đạo môn dưỡng quỷ đa số lấy gỗ hòe để tụ hồn. Dùng gỗ hòe đóng quan tài, có thể nói chính là giam cầm hồn phách của người chết lại bên trong, vĩnh viễn không được siêu sinh.
Thời gian càng lâu thì oán niệm trong quan tài càng đậm, cái tòa cổ mộ này xét ra cũng phải mấy trăm năm, như vậy thì oán niệm trong cỗ quan tàu gỗ hòe đó sâu thế nào cũng có thể đoán được.
Nhưng với tình hình lúc đó, chúng tôi không còn sự lựa chọn nào khác, sao với Hoàng Bì Tử và thiết âm trùng, tôi thà đi qua con đường có hòe mộc quan này, bởi theo bối túy có ghi, hòe mộc hung quan chỉ cần không mở ra thì ít nguy hiểm. Chúng tôi lần này chỉ muốn đi ngang qua, chắc sẽ không vấn đề gì.
Tôi nói suy nghĩ của mình cho Nhiếp Linh, nàng ngẫm lại rồi gật đầu: "Cũng được, có điều nhất định phải hết sức cẩn thận."
Ban đầu tôi cho rằng đèn dầu bên trong mộ thất là do Nhiếp Linh châm, nhưng sau mới nhận ra không phải vậy. Khi rời mộ thất vừa rồi, đi vào một mộ đạo, đèn hai bên sườn tự động bùng cháy, nháy mắt chiếu sáng trưng toàn bộ con đường.
Nhiếp Linh giải thích cho tôi: "Đèn này thắp bằng thi dầu, còn bổ sung thêm nguyệt hoa phấn, chỉ cần có dương khí đi vào sẽ tự bùng cháy."
Tôi sững sờ, không ngờ trên đời lại có thứ đèn như vậy. Nhiếp Linh nói cho tôi, nguyệt hoa phấn là luyện đan sư thời Tần trong lúc vô tình đã chế ra, nhưng từ sau đời nhà Tống thì đã thất truyền.
Luyện đan sư thời cổ có thể nói là một loại người chỉ nghe thôi đã sợ vỡ mật. Loại người này theo đuổi sự trường sinh, dùng các loại nguyên liệu cổ quái để luyện dược, có thể luyện ra những thứ quái đản cũng không có gì lạ.
Tôi theo Nhiếp Linh đi xuyên qua mộ đạo, được khoảng nửa tiếng thì nàng nói sắp tới nơi đặt hòe mộc hung quan, phải cẩn thận một chút.
Tôi biết hòe mộc hung quan không phải chuyện đùa, cho nên gật đầu tỏ ý đã hiểu. Nói thật, tôi cũng chưa từng gặp hòe mộc hung quan, chỉ là đọc được trong bối túy. Vốn dĩ tôi cho rằng hòe mộc hung quan phải là một loại quan tài rất kỳ lạ, nhưng khi tận mắt nhìn thấy, tôi mới biết cái quan tài này cũng chẳng có gì đặc biệt.
Nhìn từ bên ngoài, nó chẳng khác những quan tài phổ thông chút nào, thậm chí màu sắc vẫn là màu gỗ thô. Chỉ có một điểm lạ đó là trên quan tài phát ta một luồng khí lạnh, nếu tới gần, tự nhiên sẽ cảm nhận được.
Cái quan tài này lớn hơn khá nhiều cỗ quan tài đá trong gian mộ thất đầu tiên. Nó cứ nằm im lìm như vậy trên thạch đài, không có gì quái lạ.
Khi chúng tôi đi qua, cỗ quan tài cũng chẳng có động tĩnh gì, nhưng khi sắp rời khỏi mộ thất, trong đầu tôi đột nhiên nảy ra một ý niệm, xoay người nhìn cỗ quan tài.
Nhiếp Linh đi trước được vài bước thì nhận ra tôi không đi theo, vội quay lại nhẹ giọng nói: "Đi thôi!"
Tôi lẳng lặng đáp: "Những kẻ đó hại chết Tam thúc, anh phải báo thù!"
Nhiếp Linh nhìn tôi chằm chằm, sau đó hỏi: "Anh định làm gì?"
"Anh muốn mang cỗ hòe mộc hung quan này ra ngoài!"
"Anh nói bậy bạ gì thế?" Nhiếp Linh lập tức giữ chặt lấy tôi kéo đi, tôi gằn từng chữ một: "Anh không nói bậy, đám người kia hại chết Tam thúc, anh phải báo thù. Cỗ hòe mộc hung quan này chính là công cụ tốt nhất!"
Trong tức khắc, cả đầu tôi bị lấp đầy bởi ý nghĩ báo thù, mặc kệ Nhiếp Linh khuyên can thế nào, tôi cũng nhất định phải mang nó ra ngoài bằng được.
Thấy tôi cố chấp, Nhiếp Linh cuối cùng thở dài: "Thôi được, ai bảo em là vợ anh cơ chứ. Cổ nhân đã có câu phu xướng phụ tùy, nếu anh cứ cố chấp, em cũng chỉ có thể nghe theo."
Nghe nàng nói vậy, hốc mắt tôi chực trào hai hàng lệ nóng, tự nói: "Hơn nửa năm trước, Lưỡng Sơn Khê xảy ra thảm kịch, anh với Tam thúc là hai người duy nhất sống sót. Giờ Tam thúc cũng đi rồi, cả Lưỡng Sơn Khê chỉ còn lại mình anh, anh bắt buộc phải báo thù, báo thù cho Tam thúc, báo thù cho cha mẹ, báo thù cho cả Lưỡng Sơn Khê! Tiểu Linh, cảm ơn em đã chịu hiểu cho anh!"
Nhiếp Linh bước tới, choàng tay ôm lấy eo tôi, tựa đầu vào ngực thủ thỉ: "Là anh đã cứu em, đời này em sống là người của anh, chết làm ma nhà anh. Lưỡng Sơn Khê bây giờ không phải chỉ còn mình anh, mà còn có em, em là dâu Lưỡng Sơn Khê, cả đời này!"